Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2010

Khuyến tu Tịnh Độ thiết yếu (2)

III. KHUYÊN CẦU SANH TỊNH ĐỘ

Các vị Thiện nhân! Nay đã thật tâm niệm Phật thì phải phát nguyện cầu sanh Tịnh độ, không thể chỉ mong cầu phước báo. Người đời nghe câu nói này chưa khỏi ngạc nhiên kinh lạ. Họ nghĩ tu hành vốn là mong cầu phước, niệm Phật được phước chính là việc vừa lòng thỏa ý, tại sao lại không muốn phước báo?

Nếu nói Tịnh độ, lẽ nào bọn phàm phu chúng ta có thể vãng sanh? Huống chi công hạnh cạn mỏng làm gì được vãng sanh?

Các vị thiện nhân! Những tư tưởng ấy rất sai lầm, phải biết phước báo có lúc hết.

Thử xem người đời, hoặc ông bà giàu có, con cháu nghèo hèn, hoặc lúc trẻ giàu có, đến già nghèo hèn, đâu không phải là phước báo có khi hết. Không chỉ vậy, đời nay tu hành đời thứ hai hưởng phước, đời thứ hai không tu đời thứ ba lại chịu khổ. Hoặc có súc sanh lúc quả báo hết mới được thân người, vừa được làm người bị phạm lỗi lầm lại rơi xuống loài súc sanh. Lên xuống bất định cho nên gọi là nổi chìm trong biển khổ.

Không chỉ như thế, hoặc người có tài sản nhưng không con; hoặc có con mà không có tài sản; hoặc được sống lâu nhưng lại lẻ loi nghèo khổ; hoặc thông minh nhưng chết sớm; hoặc giàu có mà ngu dốt; hoặc sang trọng mà bị tai ương; hoặc tự thân ít bệnh mà quyến thuộc điêu linh; hoặc gia đình tạm an, thân mình bệnh tật. Có cái này lại thiếu cái kia, cho nên gọi cõi này là thế giới không hoàn mỹ. Ông cho rằng phước báo là cái vừa lòng thích ý hay sao?

Nếu sanh về Tây Phương thì không như thế. Hoa sen hóa sanh, thân thể thanh khiết, tướng mạo đoan chánh, trong tâm đầy đủ trí tuệ không có phiền não, y phục và thức ăn tự nhiên hóa hiện, không bệnh không già, theo Phật tự tại tiêu diêu an dưỡng. Tuổi thọ của con người ở đó lại vô lượng, từ đây tiến thẳng đến chỗ thành Phật đạo không còn đọa lạc. Ngoài ra biết bao niềm vui vẻ nói không thể hết. Những điều trên là do chính Đức Phật nói trong kinh Di Đà và các kinh điển Đại thừa.

Do đây mà xét, sự giàu sang ở thế gian trong chớp mắt liền trở thành không; niềm vui vẻ nơi Tây Phương vô cùng vô tận. Sao không gấp rút phát nguyện cầu vãng sanh?

Nếu nói ta là phàm phu e không thể vãng sanh, nên biết Đức Phật Như Lai chính vì bọn phàm phu chúng ta nghiệp chướng sâu dày, trí tuệ cạn mỏng, nếu tu pháp môn khác đều là ra khỏi ba cõi theo chiều dọc, e trong một đời không thể thoát khỏi sanh tử. Thế nên đặc biệt mở ra một pháp môn niệm Phật, mong người vãng sanh để mãn tâm nguyện độ hết chúng sanh của Ngài. Tại sao ông lại tự vứt bỏ mình, chẳng suy tư để phấn phát, nỡ cô phụ tấm lòng từ bi của Chư Phật như thế?

Nếu cho rằng công hạnh cạn mỏng, nên biết Vạn đức Hồng danh không có điều thiện nào mà chẳng thâu nhiếp, không có điều ác nào mà chẳng tiêu diệt. Đây chính là công hạnh lớn cùng cực, sâu cùng cực, rộng cùng cực, viên mãn cùng cực. Cho nên niệm Phật một tiếng có thể diệt rừ vô lượng tội nặng trong tám mươi ức kiếp; không thể xem niệm Phật là việc tầm thường, chẳng có gì đặc biệt.

Phải biết người niệm Phật hoàn toàn nương vào sự nhiếp thọ nơi nguyện lực đại bi của Phật A Di Đà. Ban đầu Phật A Di Đà có bốn mươi tám nguyện, mỗi nguyện mỗi nguyện đều là vì cứu độ mọi người. Nguyện thứ 18 nói rằng: “ Khi Tôi thành Phật, chư Thiên nhân dân trong vô lượng thế giới khắp mười phương, chí tâm tin tưởng ưa thích, muốn sanh về nước Tôi, niệm danh hiệu Tôi mười lần ắt liền vãng sanh, chỉ trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch, chê bai chánh pháp. Nếu không được như nguyện này, Tôi quyết không thành Phật”.

Do Đức Phật có đại nguyện này nên khi nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà thì trong ao thất bảo ở Tây Phương liền mọc một đóa hoa sen, nêu tên người ấy, ngày sau thác sanh trong đó, lúc lâm chung Phật A Di Đà cùng hai vị Bồ Tát Quan Ấm Thế Chí hiện thân tiếp dẫn.

Từ xưa đến nay, người được vãng sanh không thể tính hết. Hoặc có người dự biết trước ngày giờ lâm chung và đến lúc ấy tự nói thấy Phật Bồ Tát liền an nhiên mà qua đời. Hoặc có những người bên cạnh đồng thấy áng sáng lành, cùng nghe mùi hương lạ và tiếng nhạc du dương. Hoàn toàn chẳng phải không có chứng tích, những việc ấy đều có ghi trong các truyện vãng sanh.

Hiện nay người niệm Phật chân thật khẩn thiết rất ít, cho nên vãng sanh không nhiều. Mọi người ít thấy điềm lành vãng sanh, do đó không tin sâu rộng, trăm dặm có một người. Người trong cả trăm dặm ngàn dặm được vãng sanh này đâu chỉ là phàm phu? Mười năm có một người, năm năm có một người, những người vãng sanh trong mười năm, năm năm này đâu chỉ là kẻ phàm phu? Những người vãng sanh này lẽ nào đều có công hạnh trong ba A tăng kỳ kiếp hay sao? Chẳng qua chỉ là họ có thể dụng tâm chân thật khẩn thiết mà thôi!

Trong kinh A Di Đà nói rõ:

“Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe nói về Phật A Di Đà liền chấp trì danh hiệu hoặc một ngày cho đến bảy ngày nhất tâm không loạn động, liền vãng sanh về thế giới Cực Lạc”.

Đó đều là do đại lực đại nguyện của Phật A Di Đà. Ví như một chiếc thuyền lớn, chẳng luận là vật gì chỉ cần để lên thuyền thì được đến bờ bên kia. Cho nên người xưa nói: “Học đạo các môn khác như kiến bò lên non cao, niệm Phật cầu vãng sanh tợ đi thuyền thuận nước”. Đi thuyền thuận nước lại gặp gió xuôi, đâu chẳng phải đã nhanh chóng còn thêm nhanh chóng, đó chính là đạo lý nhờ vào nguyện lực của Phật.

Các vị Thiện nhân! Thuận nước, thuận gió là việc sau khi đã lên thuyền. Nếu ông chẳng chịu lên thuyền thì biết làm thế nào? Cho nên chính mình cần phải có nguyện lực chuyên thiết.

Hiện nay người niệm Phật hoặc vì bệnh khổ mà phát tâm; hoặc vì bảo hộ gia đình; hoặc vì hiện tại tiêu trừ tai nạn, kéo dài tuổi thọ; hoặc vì vọng cầu giàu sang ở đời sau, ít có ai vì việc lớn sanh tử mà cầu vãng sanh Tịnh độ.

Như người đi sang phương Nam hay qua phía Bắc, phải có phương hướng dự định. Dự định sang phương Nam, khi ra khỏi cửa quyết chẳng đi về phía Bắc. Nay ông không phát nguyện cầu sanh Tịnh độ, đến lúc lâm chung làm sao được vãng sanh?

Đó là nói người không phát nguyện cầu vãng sanh. Lại còn có người phát nguyện nhưng không chuyên thiết, nên miệng cũng nói nguyện sanh Tây Phương, trong lòng lại luôn tham đắm vật dục. Tuy ngẫu nhiên phát nguyện cầu sanh nhưng hoàn toàn chẳng thể trọn đời như một ngày, được sanh thì tốt không vãng sanh thì thôi, hoàn toàn chẳng có công phu chi thiết thật, như thế đâu khác gì không phát nguyện.

Than ôi! Chúng sanh trong thế giới ác trược tham quyến phồn hoa, cam tâm sa đọa, chẳng cầu giải thoát, thật không biết phải làm sao?

Nói chung, pháp môn niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn, sự vui vẻ ở Tây Phương không có gì so sánh được. Niệm Phật cầu vãng sanh chính là phù hợp với tâm Phật. Nguyện sanh thì vãng sanh, không nguyện thì không vãng sanh. Nguyện không chuyên thiết thì cũng như không nguyện. Chẳng phải Phật không độ, chỉ vì ông không quyết chí.

Nếu đem pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này mà tìm cầu phước báo nhỏ bé ở thế gian, ví như lấy hạt minh châu bắn chim sẽ. Thật là đáng tiếc thay!

Lành thay! Lành thay!
Chân thành phát nguyện.
Cầu sanh Tịnh độ.

IV. KHUYÊN TU CHÁNH HẠNH VÀ TRỢ HẠNH

Các vị Thiện nhân! Nay đã cầu sanh Tịnh Độ, phải tu hai hạnh chánh và trợ để lúc mạng chung được vãng sanh, chẳng những quyết định không nghi mà còn tăng cao phẩm vị.

Tu chánh hạnh tuy có nhiều môn nhưng nói chung chú trọng ở một pháp Trì danh, bởi Trì danh dễ mà công hiệu cũng dễ. Bậc cao đức ngày xưa ở trong chánh hạnh Trì danh mở ra ba môn Tín – Hạnh – Nguyện. Ở phần trước đã sơ lược trình bày đầy đủ, nơi đây lại dẫn bốn điều, mong người có chí tham khảo để thực hành.

1. Dốc lòng tin lời Phật:

Ông nghĩ rằng từ vô thỉ đến nay luân hồi trong sáu nẻo không thể giải thoát, đời nay sao lại may mắn phát tâm xuất thế này? Lại còn may mắn được nghe pháp niệm Phật vãng sanh, cực kỳ dễ dàng, cực kỳ thắng tắt mà còn do dự không quyết định, bệnh này do lòng tin Phật chưa chân thành tha thiết nên mới như vậy.

Phải biết trí tuệ, thiền định, giới luật, kiến thức, sức mạnh thần thông, từ bi khổ hạnh, còn có ai hơn Phật nữa chăng? Thế thì pháp mà Phật nói quyết định không sai trái, quyết định chẳng làm lầm lạc người. Do đó gọi lời Phật là lời nói chân thật, là lời nói không lừa dối.

Đức Phật nói, người cực ác lúc sắp lâm chung thành tựu mười niệm cũng được vãng sanh. Mọi việc làm trong cả đời của ông chưa hẳn đến nỗi xếp vào hạng cực ác, thường ngày trì danh lại hơn mười niệm. Nếu chẳng được vãng sanh tức là Đức Phật làm lầm lạc người, dẫn người đi sai đường, lẽ nào lại có việc đó?

Nay ông chỉ cần tin chắc thật, niệm niệm chuyên thiết, ngày ngày chẳng kể, lần hồi đến lúc lâm chung chánh niệm cầu vãng sanh, hoàn toàn chẳng điên đảo thì nhất định được vãng sanh không nghi. Ví như trồng dưa quyết định được dưa, trồng đậu quyết định được đậu, lại như dùng bùi nhùi lấy lửa, đá nam châm dẫn kim, chỉ cần cơ cảm hợp nhau quyết định được ứng nghiệm, tự mình quyết đừng phát sanh sự chướng ngại mà không thể tiến tới trước.

Nếu nghi ngờ sâu nặng, tuy nghe nói như thế nhưng rốt cuộc vẫn cảm thấy hồ nghi. Đó là do nghiệp chướng mạnh mẽ, phải thường để khởi chánh niệm, lại thêm sớm chiều sám hối, lâu ngày dài tháng tự nhiên có thể hiển bày trí tuệ. Tin chắc không nghi thì việc niệm Phật cũng mười phần đắc lực.

Đây là điều trọng yếu thứ nhất mở đầu để phát khởi niềm tin nơi chánh hạnh.

2. Gần gũi bậc Thiện trí thức:

Niệm Phật tuy là việc rất dễ dàng nhưng niệm không đắc lực thì cảm thấy không có mảy may lợi ích. Khi gặp cảnh duyên chẳng thuận liền phát sanh sự thối lui lười biếng. Hoặc nghe các pháp Thiền Quán, lại suy nghĩ muốn Tham thiền tập Quán thay đổi pháp môn.

Nếu không gặp thầy lành bạn tốt cảnh sách bình luận xét định thì nhất định sai lầm không ít. Thế nên, tu hành tuy chính mình cần phải dụng công nhưng hoàn toàn nhờ vào lực của bậc Thiện tri thức. Trong kinh nói: “Bậc Thiện tri thức là nhân duyên hoàn toàn để được đạo. Nếu như tự mình ứng dụng công phu tu sai lầm thì mình nhờ Thiện tri thức chỉ điểm trở về chân chánh; tự mình công phu lười biếng thì nhờ Thiện tri thức cảnh giác sách tấn. Những điều mình không biết thì nhờ Thiện tri thức nói rõ; những điều mình đã biết phải nhờ Thiện tri thức ấn chứng”. Nếu người thông hiểu văn nghĩa thời nên nghiên cứu kinh giáo, tăng trưởng lòng tin Tịnh độ, cũng phải cùng với Thiện tri thức luận rõ, tìm xét một cách thiết thực mới tránh khỏi vướng mắc vào sự hiểu biết mà tự lầm lạc.

Pháp sư Tĩnh Am nói:

“Tài nghệ nhỏ ở thế gian còn không thể không có thầy bạn, huống gì niệm Phật là pháp môn vượt thoát sanh tử. Nếu không có Thiện tri thức thì biết từ đâu mà khai phát? Ai dẫn dắt? Một niệm bất giác liền bị đọa lạc, sai lầm không nhỏ. Đến lúc lâm chung, bậc Thiện tri thức lại càng thêm quan trọng”.

Hòa thượng Thiện Đạo nói:

“Phàm tất cả người mạng chung muốn vãng sanh Tịnh độ thì cần phải không được sợ chết. Thường nghĩ thân này nhiều đau khổ, bất thanh tịnh, nghiệp ác trùng trùng xen tạp. Nếu được bỏ thân hình nhơ nhớp này, siêu sanh Tịnh độ thì thọ hưởng vô lượng niềm vui, giải thoát con đường khổ đau sanh tử. Như vậy mới vừa ý, như cởi bỏ chiếc áo nhơ xấu được thay vào y phục quý đẹp. Chỉ nên buông bỏ thân tâm đừng sanh lòng lưu luyến.

Hễ gặp lúc có bệnh thì nghĩ nhớ về vô thường, nhất tâm niệm Phật đợi cái chết đến.

Dặn dò người nhà và người lo bệnh vì tôi mà niệm Phật, không được nói việc tạp nhạp hằng ngày, sắp mạng chung thân thuộc không được khóc lóc rơi lệ và phát ra lời than thở ảo não, hoặc loạn tâm thần mất đi chánh niệm, chỉ nên đồng thanh niệm Phật trợ giúp vãng sanh, đợi khi hơi ấm hết rồi, lâu sau mới có thể bi ai than khóc.

Vừa có mảy may tâm luyến tiếc như thế liền trở thành chướng ngại chẳng được giải thoát. Nếu được người hiểu rõ Tịnh độ thường đến sách tấn thì rất là may mắn.

Tôi thường thấy người đời lúc bình thường niệm Phật cầu sanh Tây Phương, nhưng đến lúc lâm chung lại sợ chết, hoàn toàn chẳng nói đến việc vãng sanh giải thoát. Chết là việc trọng đại tự mình cần phải gắng sức!”.

Xem Hòa thượng Thiện Đạo khai thị như thế, có thể biết đây là mấu chốt trọng yếu. Trước phải gần gũi bậc Thiện tri thức, mới mong lúc lâm chung được sức mạnh tương trợ.

Đây là điều trọng yếu thứ hai cảnh sách huân tu nơi chánh hạnh.

3. Thường thêm tinh tấn:

Tinh tấn có nhiều dạng, như công khóa mỗi ngày và pháp Thập niệm sẽ nêu ở phần sau.

Mỗi ngày hạn định bao nhiêu cầu Phật hiệu, đó là tùy theo sự trù tính trong hoàn cảnh bận hay rãnh của mỗi người. Lập định khóa trình suốt đời này, mỗi ngày cũng không để gián đoạn, đó gọi là thường hằng tinh tấn.

Gặp lúc thanh nhàn, hoặc mỗi ngày một đêm, cho đến bảy ngày, hai mươi mốt ngày, bốn mươi chín ngày, hạn định thời gian chuyên niệm để mong nhanh chóng chứng đắc tam muội, đó gọi là mạnh mẽ tinh tấn.

Phương pháp niệm Phật không luận là một người hay nhiều người niệm, ngồi xếp bằng hay kinh hành niệm, trì thầm hay niệm ra tiếng, đều phải nhất tâm nắm chặt danh hiệu Phật, mỗi chữ mỗi chữ rõ ràng, vừa cảm thấy lờ mờ liền gấp rút để khởi sự tỉnh giấc soi chiếu. Hoặc rơi vào vô ký, hoặc trôi theo vọng tưởng, lần lượt tỉnh giấc, lần lượt để khởi, đem một câu Phật hiệu này huân vào áp bức ý căn, đoạn dứt hôn trầm tạp niệm, đó là con đường chân chánh của pháp niệm Phật.

Không thể quá gấp, gấp thì khó được lâu dài; không thể quá hưỡn, trì hưỡn thì dễ rời rạc. Lại không thể trông mong nhập định, hoàn toàn chẳng để khởi ý niệm.

Nếu buông bỏ không niệm nơi miệng rất dễ rơi vào chỗ hôn trầm nhẹ. Bởi vì niệm Phật quan trọng ở nơi nhất tâm không loạn động, lúc sắp lâm chung hoàn toàn nhờ vào niệm này mà vào thẳng thai sen. Người niệm Phật không thể không biết. Đến khi đạt tới chỗ nhất tâm cùng cực thì chẳng mong Thiền định hiện tiền mà cũng tự hiện, đây là khi công phu thuần thục, hoàn toàn khác xa với người buông bỏ không niệm nơi miệng rơi vào chỗ hôn trầm nhẹ. Nên nghiền ngẫm suy tư kỹ điều này!

Còn như Thể cứu, niệm tức là vô niệm thì không ngại vô niệm mà niệm. Một niệm này tức là Tam đế: Không, Giả, Trung; tức là bốn pháp giới Sự Lý; tức là hai môn quán Duy thức, Duy tâm; tức là tâm mầu nhiệm Niết Bàn, Thật tướng Vô tướng. Đó chính là pháp niệm Lý nhất tâm của bậc thượng căn, nhưng cũng không rời nhất tâm, nắm chặt câu Phật hiệu, mỗi chữ mỗi chữ rõ ràng mà niệm.

Đây là điều trọng yếu thứ ba của phép tắc Trì danh nơi chánh hạnh.

4. Phát nguyện chuyên cần, nhớ nghĩ thiết tha:

Lấy công đức niệm Phật này cầu sanh Tịnh độ, đó là nguyện. Nhưng phải luôn luôn khẩn thiết nguyện cầu; đối với tất cả việc lành hồi hướng; đối với tất cả việc ác sám hối hồi hướng. Tùy lúc tùy việc đều nguyện về Tây Phương thì nhân duyên Tịnh độ thuần thục, lúc lâm chung vãng sanh, cũng như xe nhẹ đường quen không có chút gì trở ngại.

Còn như nhớ tưởng Phật Di Đà, càng là sự thiết yếu của pháp niệm Phật.

Chương Đại Thế Chí trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại tương lai nhất định thấy Phật”. Nhớ nghĩ như việc khẩn thiết ràng buộc trong lòng; hoặc nhớ nghĩ sự trang nghiêm về y báo và chánh báo của Phật Di Đà, quán tưởng Phật Bồ Tát, Pháp thân, Báo thân, Hóa thân và các tướng bạch hào, duỗi tay, ánh sáng tròn đầy, Hóa Phật, hoa sen; hoặc nghĩ nhớ công đức, thệ nguyện từ bi của Phật Di Đà thương xót chúng ta biết bao, cứu vớt tất cả chúng sanh.

Nghĩ tưởng thiết tha, nhớ mãi không quên, ở trong Trì danh chẳng ngại chuyển đổi lần lượt, nhớ niệm Phật, tinh thần dung hội nơi đó, đây chính là nhất tâm không loạn động.

Nhất định đừng bảo rằng, ý niệm xen lẫn mà tự phát sanh nghi ngờ lo ngại. Bởi nhất tâm nghĩa là chuyên chú nơi một cảnh, ví như những kẻ mưu tài hiếu sắc, tinh thần hồn phách muôn thứ tính toán đều qui nơi một việc, ắt mong tới tay rồi mới thôi, như thế đâu chẳng phải nhất tâm rồi sao? Thế nên người niệm Phật trong lúc vội vàng vẫn thường không quên Phật, lâu dần trở thành thuận thục, tự nhiên thường nghĩ nhớ, có thể ngăn chặn tất cả ý niệm ác, thành tựu tất cả công đức của nhân thanh thanh tịnh.

Bậc Cao đức ngày xưa có nói bài kệ:

“Lâm chung không thể quán và niệm
Chỉ sanh khởi ý biết có Phật,
Người này hơi đứt liền vãng sanh
Kinh Đại Pháp Cổ nói như thế”.

Bởi vì lúc lâm chung không thể quán niệm, chỉ biết được trong lòng có Phật liền như ý mà vãng sanh, huống chi nhớ niệm không quên. Đó là điều trọng yếu thứ tư nhớ nguyện chuyên thiết nơi chánh hạnh.

Có thể đầy đủ bốn chánh hạnh nói trên thì việc vãng sanh đã quyết định không còn nghi ngờ. Song, còn phải tu rộng rãi sáu trợ hạnh mới được lợi ích thù thắng.

Cõi Ta Bà như biển khổ, niệm Phật như ngồi trên thuyền, vãng sanh Tịnh độ như đến bờ bên kia, trợ hạng như cánh buồm, mái chèo, tiền lộ phí. Có cánh buồm, mái chèo, tiền lộ phí thì thuyền này một khi đi sẽ không gì trở ngài, tiến thẳng đến bờ bên kia.

Những gì là trợ hạnh?

1. Lễ kính Tam Bảo:

Năm vóc chuyên cần, tu rộng rãi về sự cúng dường, dù là việc bổn phận của người tu hành.

Người đời niệm Phật phần nhiều lười biếng, không chỉ hằng ngày chẳng thường lễ bái, thậm chí gặp Phật cũng không lạy, còn như tất cả sự cúng dường phần nhiều thiếu sót.

Lý do chẳng qua là vì miệng niệm thì dễ, thân lễ thì khó; nói suông thì dễ, ra sức thực hành thì khó. Chẳng biết rằng, việc khó làm mà có thể làm được, điều đó mới đáng quý.

Tuy nói tu hành ở bên trong, chẳng phải ở bên ngoài nhưng đáng vẻ cung kính ở bên ngoài cũng không thể thiếu. Vả lại, ở ngay nơi bên ngoài có thể chứng tỏ bên trong, cho nên người xưa nói: “Người tu hành chân thật xem hình vẽ tượng gỗ đồng với Phật thật, thương như cha mẹ, kính như quân vương, sớm chiều yết kiến, hết lòng thành kính, lạy xuống như núi đổ, đứng lên tợ mây thăng, ra thì chấp tay vái chào. Người mà chấp tay vái chào thì dù xa trăm ngàn dặm nhưng cũng như thường ở trước mặt”.

Khi ăn lúc uống trước phải nên cúng dường. Trong Văn Long Thơ Tịnh độ nói: “Cúng Phật, trai tăng, dâng hương, hiến hoa, treo phan, xây tháp, các việc sùng phụng Tam Bảo đều có thể hồi hướng Tây Phương”. Huống gì người cầu vãng sanh Tịnh độ, đã là đệ tử Tam Bảo nếu không kính trọng Tam Bảo thì tâm cầu vãng sanh ấy ắt không chân thật khẩn thiết. Thế nên mọi người phải dốc hết tâm lực, quyết đừng lười biếng lơ là.

2. Sám hối:

Sám là ăn năn lỗi đã qua, hối là chừa bỏ những lỗi lầm về sau. Người tu hành lấy sám hối làm chính yếu. Bồ Tát Phổ Hiền còn có lời nguyện về sám hối, huống gì kẻ phàm phu!

Do từ vô lượng kiếp đến nay, ba nghiệp thân miệng ý gây ra những lỗi lầm sâu nặng, đều có thể trở thành nhiều sự chướng ngại nên gọi là nghiệp chướng. Nếu không sám hối thì nghiệp chướng không tiêu trừ, ví như áo nhơ cần phải giặt giũ, ví như gương dính bụi cần phải lau chùi. Nhơ hết thì áo sạch, bụi hết thì gương sáng, nghiệp chướng không còn thì thân tâm thanh tịnh.

3. Ngăn ác làm lành:

Trong Văn Long hoàn toàn, lại lễ Phật niệm Phật, đọc tụng kinh điển Đại thừa, hiểu Đệ nhất nghĩa, lấy đó hồi hướng Tây Phương tất lên Thượng phẩm Thượng sanh”.

Nói “trai” nghĩa là không ăn thịt, không uống rượu, không ăn ngũ tân.

Nói “giới” nghĩa là không sát sanh, trộm cướp, tà dâm tức là ba nghiệp của thân; nói dối, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác là bốn nghiệp của miệng; tham dục, sân hận, tà kiến là ba nghiệp của ý. Có thể giữ gìn không phạm đó là mười điều lành, nếu phạm không giữ gìn đó là mười điều ác.

Giữ bốn giới trước, thêm giới không uống rượu, đó là năm giới, Người giữ năm giới mà tu Tịnh độ cũng không mất phần vãng sanh Trung phẩm. Nếu không thể giữ năm giới thì phải giữ gìn giới sát. Sát sanh là điều đứng đầu trong năm giới. Không sát sanh là đại thiện, sát sanh là đại ác. Đại sư Liên Trì nói:

Xin khuyên người đời đã là niệm Phật thì phải y theo lời Phật dạy, phải tích đức tu phước, phải hiếu thuận với cha mẹ, phải trung thành phụng sự quân vương, anh em phải yêu thương lẫn nhau, vợ chồng phải quý kính nhau. Phải chí thành thật thà giữ chữ tín, phải nhu hòa nhẫn nhục, phải công bình chánh trực, phải khéo vun bồi âm đức, phải từ bi thương xót tất cả, không sát hại sanh mạng, không lăng nhục người dưới, không áp bức dân thường.

Nếu có tâm không tốt sanh khởi liền gắng sức niệm Phật, nhất định phải niệm cho thối lui tâm không tốt này. Như thế mới là người niệm Phật chân chánh, nhất định được vãng sanh.

4. Cắt bỏ tình ái:

Người đời đối với người cốt nhục phần nhiều thường ái luyến. Lại xem tài sản như tánh mạng, cũng đều tham đắm không quên.

Lòng trược thế bên đây nặng nề thì tâm Tịnh độ bên kia tự nhiên nhẹ mỏng. Đến lúc mạng chung thần hồn ắt đi về chỗ nặng, ví như một cây to nghiêng nặng về bên nào thì sau này lúc ngã đỗ sẽ tự nhiên ngã đỗ về bên ấy. Đó là lẽ tất nhiên.

Từ trước đến nay vợ con cốt nhục đều là có duyên thì tụ hội, duyên hết thì ly tan. Sau khi ly tan, người này và kẻ kia đều không nhận ra nhau. Như ông từ nhiều đời đến nay, vợ con cốt nhục không ít nhưng hiện giờ ở đâu? Ông vẫn còn thương yêu họ chăng? Nghĩ đến đây không thể không lạnh nhạt. Trong đó lại có duyên ác tụ hội, quyến thuộc tức là oan gia, bất giác âm thầm bị hại, đâu không phải là thương yêu sai lầm rồi sao?

Còn như các thứ tài sản và mọi điều ham thích, chớp mắt liền trở thành không, càng phải nên nhìn thấu đáo.

5. Cởi bỏ oan kết:

Phàm oán thù chưa hết không nên kết, như các việc sát sanh, trộm cướp, tà dâm và lòng tham lam sân hận đều là nhân kết thành oán thù. Có thể cấm ngăn thì không kết, không kết thì không có oán thù, còn đã kết thì nên cởi mở.

Như quyến thuộc mà trở thành oán thù, người ngoài bỗng nhiên chống đối mình, cho đến chó cắn rắn mổ chẳng phải là không có nguyên nhân, đều do oan trái từ trước, cần phải hoan hỷ chịu đựng cởi mở với chúng. Quyết không thể bên kia qua bên đây lại, càng kết càng sâu.

Tuy Tịnh độ là pháp môn vượt thoát theo chiều ngang, nhưng nếu có thể quyết tâm cầu vãng sanh thì dù cho kẻ oán thù lớn nhất cũng không thể ngăn trở ta vãng sanh. Nhưng cứu xét kỹ thì chẳng bằng sớm nên cởi mở thì sẽ cảm thấy tâm không ngăn ngại.

Lại phải biết từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, oán thù không ít, nhân duyên chưa gặp, đâu thể mỗi mỗi đều cởi mở được hết. Cần phải nhờ vào sự phát nguyện ở trước Phật, nguyện dùng công đức niệm Phật này làm lợi ích khắp cả oan gia oán thù. Nếu khi ta thành Phật thì độ những chúng sanh này trước. Dùng tâm từ bi mà tiêu trừ lòng oán hận cũ của những người kia, lại thêm nguyện lực thì thật có lợi ích, tự nhiên hóa hận thù thành ân đức.

6. Gắng sức mạnh mẽ:

Hiện nay người tu Tịnh độ cũng có người chẳng bằng ta, cũng có người hơn ta. Người không bằng ta quyết không nên so sánh với họ, nói ta hơn họ như thế thì không có tiến bộ. Cần phải so sánh với người hơn ta, nghĩ rằng ta với họ cùng niệm Phật như nhau, tại sao họ tinh tấn? Tại sao ta lại lười biếng? Vì sao họ chuyên nhất? Vì sao ta lại tán loạn? Kia đã trượng phu ta đây cũng vậy. Nếu không gắng sức mạnh mẽ, mắt nhìn họ đã vượt lên Cực Lạc, còn ta vẫn như cũ nổi chìm trong biển khổ.

Hiện nay gọi là đạo hữu bạn bè, nói cười thân thiết nhưng chớp mắt đã phân chia thánh phàm, cách xa như trời với vực. Lẽ nào lại chẳng hổ thẹn sao? Lẽ nào lại chẳng đau xót sao? Suy xét như thế tự nhiên mạnh mẽ tiến bộ, một đời giải quyết xong xuôi không đợi đến đời sau.

Người tu hành hiện nay có kẻ phát nguyện đời sau tiếp tục tu hành. Theo họ nói, tự lường xét đời nay công hạnh cạn mỏng, đời sau giả thêm công hạnh nữa mới mong thành tựu. Như thế thật là rất sai lầm! Trong kinh nói: “Một khi mất thân người, muôn kiếp khó được lại”, dù cho được thân người nhưng có thể bảo đảm còn biết tu hành chăng?

Lại theo họ nói, đời nay phát nguyện, nhờ vào nguyện lực này thì đời sau quyết định biết tu hành. Điều này lại sai lầm nữa! Đã phát nguyện đắc lực như thế, sao không phát nguyện hiện đời liền vãng sanh Tịnh độ, tự nhiên ắt được vãng sanh, cần gì phải đợi đến đời sau? Hơn nữa, đời này ông không cầu vãng sanh thì đời sau lại có thể cầu vãng sanh chăng? Chẳng may đời sau gặp chướng duyên khác không còn tu hành, như thế không chỉ chẳng thể vãng sanh mà cũng khó bảo đảm được không mất thân người. Cho nên người xưa nói:

“Thân này chẳng chịu đời nay độ,
Lại đợi đời nào độ thân này”.

Người niệm Phật quyết phải lập chí vững chắc. Xem hiện cư trú nơi Ta Bà như người khách ở tạm, lại phải xem mình là người nơi Tịnh độ, phẩm bậc cao siêu biết chừng nào! Như thế tự nhiên miên mật tinh tấn đến lúc chứng quả mới thôi. Đây là một pháp rất thiết yếu của sự vãng sanh Tịnh độ.

Lược nói như thế về sáu trợ hạnh trên, nếu nói rộng ra thì có vạn hạnh, đều ở nơi tâm khiêm tốn mong cầu lợi ích của mọi người, thật sự gắng sức đảm đang. Phàm là những việc có trợ giúp cho Tịnh duyên thì đều siêng năng mà làm là được rồi!

Lành thay! Lành thay!
Vãng sanh như nguyện.
Chánh trợ gồm tu.

KHUYÊN NGƯỜI TU HÀNH TU TỪ NƠI CĂN BẢN

Nay các vị Đại thiện nhân, hoặc nam nữ đã phát tâm tu hành, phải biết bắt đầu tu từ chỗ căn bản.

Sao gọi là căn bản?

Trung với quân vương, hiếu thảo với cha mẹ, tôn tính sư trưởng, thương yêu anh em, phân biệt vợ chồng, tin tưởng bạn bè, dạy bảo con cháu, hòa thuận tông tộc, phụng sự bậc có đạo đức, tha thứ cho người không hiểu biết, giữ gìn thành kính, siêng năng sám hối, phản tỉnh lỗi lầm của mình, nhẫn nhịn sự nhục mạ của người. Lấy vài việc này để ra sức thực hành mới gọi là bắt tay vào công phu, không đến nỗi chẳng biết đầu đuôi ra sao. Tu trì lâu dần, tiến thẳng đến địa vị Thánh Hiền, tự nhiên bước vào cõi Thánh.

Nay hoặc có người tu trì lại vì thành kính mà ở chỗ căn bản hoàn toàn không quan tâm đến, hoàn toàn chẳng chú trọng. Tôi e Thánh nhân Tam giáo quyết chẳng thâu nhận những người không chú trọng trung, hiếu, nhân, nghĩa.

Ơn của vua không luận là người làm quan hay chẳng làm quan; cha mẹ sư trưởng không luận là còn hay mất, không suy nghĩ làm sao báo đáp thì không được. Thế nên người phát tâm tu hành, chẳng luận công đức lớn nhỏ, chẳng luận trì tụng nhiều hay ít, thảy đều hồi hướng về quả Phật để báo đáp ân sâu của quân vương, song thân, sư trưởng.

Ngoài ra đối với anh em, vợ chồng, bạn bè, con cháu, tông tộc, cũng đều suy nghĩ làm thế nào để giáo hóa họ thành tựu tất cả quả lành.

Chỉ có cha mẹ là người sanh ta, nếu không sanh ra ta thì thân ta từ đâu mà có? Căn bản càng cấp thiết, sự báo đáp càng vội gấp. Cho nên nước nhà dùng hiếu sửa trị thiên hạ, vì vậy nói đổi hiếu có thể thành trung, tìm trung thần ở trong nhà hiếu sử.

Cha mẹ còn, sao lại được may mắn như thế? Cần phải dốc sức hiếu thảo phụng dưỡng. Khéo léo khuyên bảo cha mẹ thờ Phật, giúp cho cha mẹ nhất tâm niệm Phật, tương lai thành Phật mới thôi. Đó là người con đại hiếu trong pháp xuất thế.

Nếu cha mẹ đã mất thì thật là bất hạnh, cũng cần phải chuyên cần khẩn thiết vì cha mẹ mà tu trì niệm Phật, đọc tụng kinh điển Đại thừa, tha thiết cầu Phật tiếp dẫn cha mẹ vãng sanh Tịnh độ. Trọn đời như thế, mới có thể trọn đạo làm con.

Nếu không dụng tâm nơi đây, chỉ vì mình mà tu trì thì gọi là tu luyện đui mù, tôi e chỗ căn bản khiếm khuyết khó thành tựu sở nguyện, Kinh Thi nói: “Cành lá chưa có hạ mà gốc đã bị trốc, trái đã bị trừ sạch trước rồi”.

Nếu ở chỗ căn bản thật tâm thực hành siêng năng sám hối. Sám là ăn năn những tội lỗi đã qua. Hối là hối lỗi những lỗi lầm hiện tại. Gọi là có lỗi mà không sửa, đó là sai lầm; có lỗi mà biết sửa lỗi thì không gì tốt bằng. Nếu có thể sửa chữa sai lầm tức là việc lành rất lớn. Đức Phật từ bi luôn dũ lòng thương xót, lại hay phát tâm độ khắp cả chúng sanh đồng về Phật đạo, đồng thoát nẻo khổ luân hồi. Phù hợp với tâm Phật như bóng theo hình, nhất định thành Phật, đó gọi là làm thành chính mình thì có thể làm thành mọi vật, làm lợi ích cho người, chính là lợi ích cho bản thân.

KÍNH KHUYÊN NGƯỜI ĐẠO GIÁO

Sách này chuyên khuyên người đời nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, được thoát nẻo khổ luân hồi, mãi mãi hưởng thọ an vui.

Hoặc có người từ trước vâng theo Đạo pháp, hoặc chiêm tinh lễ đẩu, hoặc lạy tụng Đạo tạng kinh sám rất thành kính, năm dài tháng rộng được không lui sụt. Xem xét về pháp môn niệm Phật chẳng phải là không tin Phật Pháp nhưng vì vâng theo Đạo giáo nhiều năm, nay muốn khiến họ phải bỏ Đạo pháp ấy mà nhất tâm niệm Phật thì dường như chẳng phải là cách khuyên người khéo léo. Huống chi bậc Thánh nhân của Tam giáo đều dạy người cái học bắt đầu từ ngũ luân, hiếu để, trung tín, lễ nghĩa, liêm sĩ, giữ gìn đạo lý, ngăn dừng tham dục, sửa ác làm lành, thâu thúc nhân tâm tánh mạng. Hơn nữa, kinh điển Đạo tạng không chỗ nào chẳng có những câu nói liên hoa hóa sanh, vãng sanh Tịnh độ. Ngay cả trong Ngọc Hoàng Kinh Sám cũng có những lời nói nầy.

Nếu đã lễ bái Đạo tạng lại thêm công phu niệm Phật, đọc tụng kinh Phật, thành khẩn sám hối cầu sanh Tịnh độ thì càng đắc lực. Lúc lâm chung quyết định sanh về Liên Bang, ắt được phẩm vị cao.

Mong đừng cho rằng Nho, Thích, Đạo là khác nhau chẳng phải cùng một nhà. Đó là điều mà tôi mong cầu tha thiết!

NGHI THỨC NHIỆM PHẬT

(Nếu người thanh nhàn rãnh rang, gắng chí mỗi ngày sớm tối, rửa tay dâng hương, trước tụng một quyển kinh A Di Đà, ba biến chú Vãng Sanh, không được mồi hương trong bếp lửa. Lại có thể tụng thêm kinh Kim Cang, Sám Hối Hồng Danh và tất cả kinh điển Đại thừa thì càng tốt).

Thân Phật Di Đà vàng rực rỡ,

Tuyệt vời xinh đẹp tướng trang nghiêm,

Non năm tòa xoay chuyển bạch hào,

Nước bốn biển trong ngần mắt biếc,

Trong ánh sáng hóa vô số Phật,

Các hóa Bồ Tát cũng không lường.

Nguyện lành bốn tám độ hàm linh,

Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới

Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.

Nam Mô A Di Đà Phật (hoặc 500 câu, 1000 câu, cho đến một muôn, càng nhiều càng tốt).

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 lần)

Nam Mô Đại thế Chí Bồ Tát (10 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần)

VĂN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

(Đọc bài của Sám chủ Từ Vân, hoặc Văn phát nguyện Tây Phương của Đại Sư Liên Trì cũng được)

Đệ tử …… Một lòng quy mạng, thế giới Cực Lạc, Phật A Di Đà. Xin đem ánh thanh tịnh, soi chiếu thân con; dùng nguyện từ bi mà nhiếp cho con. Nay con chánh niệm, xưng hiệu Như Lai, vì đạo Bồ đề, cầu sanh Tịnh độ. Xưa Phật lập thệ: “Nếu chúng sanh nào, muốn về nước ta, hết lòng tin ưa, xưng danh hiệu ta, cho dến mười niệm, như không được sanh, ta không thành Phật”. Nay con nguyện nương, nhân duyên niệm Phật, được vào biển thệ, của Đức Như Lai; nhờ sức Từ Tôn, tiêu trừ các tội, thêm lớn căn lành. Con nguyện lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không bệnh khổ, tâm không tham luyến, ý không điên đảo, như vào thiền định. Phật cùng Thánh chúng, tay bưng đài vàng, đến tiếp dẫn con. Trong khoảng sát na, con về Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, được nghe Phật thừa, tỏ thông Phật huệ, độ khắp chúng sanh, mãn Bồ đề nguyện.

Xin đem công đức trì tụng này.

Hồi hướng bốn ơn và ba cõi,

Đệ tử cùng pháp giới chúng sanh,

Đến khi hết một báo thân này,

Tất cả đồng sanh cõi Cực Lạc.

Tất cả chư Phật mười phương ba đời, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

PHÁP THẬP NIỆM

Công việc bề bộn không thể thực hành như trước được, có thể làm theo pháp này, lâu dần chuyên tâm khẩn thiết cũng được vãng sanh.

Sáng sớm mỗi ngày, sau khi phục sức, đứng hướng mặt về phương Tây, chắp tay xưng niệm liên tục A Di Đà Phật hết một hơi là một niệm. Mười hơi như thế gọi là mười niệm, chỉ tùy theo hơi ngắn dài không hạn cuộc số câu Phật hiệu. Hết một hơi là một niệm, tiếng niệm không cao không thấp, không hưỡn không gấp, điều hòa được vừa phải, liên tiếp không dứt, mượn hơi buộc tâm, khiến tâm không tán loạn. Niệm xong cũng cần phát nguyện hồi hướng.

PHỤ LỤC
GỚI GIẤY TIỀN VÀNG MÃ VÔ ÍCH

Xem khắp trong Tạng kinh hoàn toàn không có thuyết gởi giấy tiền vàng mã nơi âm phủ.

Xin khuyên người đời đem chi phí gởi giấy tiền vàng mã làm tất cả việc lành chân thật, nhất tâm niệm Phật ắt được vãng sanh. Nếu không làm việc này mà chỉ lo gởi giấy tiền vàng mã, không luận là nguyện thái hóa vô ích, mà tâm chí ông chỉ ở nơi âm phủ thì khi chết ắt vào âm phủ.

Nếu bảo rằng, đời nay tích lũy đời sau thọ dụng, thế thì những quả báo thiện ác lúc sanh tiền là không căn cứ, chỉ có tiền của được tích lũy một cách bất nghĩa thì có thể chủ trì U Minh, chuyển dời tạo hóa, nhưng e rằng không có đạo trời tăm tối ấy! Ví như người không bỏ ác làm lành mà gởi tiền cho người coi tù, đợi khi bị bắt dùng tiền ấy để khỏi tội, như thế há chẳng phải là sai lầm lắm sao?

Trích: KHUYẾN TU TỊNH ĐỘ THIẾT YẾU

Soạn thuật: Chân Ích Nguyện
Người dịch: Thích Minh Thành

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét