Thứ Tư, 28 tháng 7, 2010

Chí tâm niệm Phật Tịnh độ hiện tiền


Đã lâu lắm rồi, từ cái ngày  thơ ấu xa xôi khi con được   mẹ dắt lên chùa, theo thời gian, tất cả mọi thứ đều như cứ trôi đi, duy chỉ có câu niệm danh hiệu Phật A Di Đà trầm bổng du dương còn đọng lại. Con thích niệm thầm danh hiệu Phật từ thuở ấy, âm thầm chẳng cho mẹ biết và cũng chẳng hiểu tại sao.
Khi lớn lên, cũng như bao người trẻ khác, con bị cuốn vào cuộc sống hối hả với bao thăng trầm, lợi danh, vinh nhục. Nhưng câu niệm Phật thì con vẫn âm thầm mang theo như một hành trang vô hình, trì niệm trong những lúc có thể, và rồi Sáu chữ Hồng danh trở nên thân thiết như một người bạn cố tri. Khi vui cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như khi thất bại, lúc cô đơn cũng như khi hạnh phúc, niệm Hồng danh Phật liền thấy lòng ấm lại, hết chơi vơi, bình tĩnh và thanh thản hơn rất nhiều. Sau này học giáo lý Tịnh độ, con mới biết mình có căn lành với pháp môn niệm Phật thâm diệu này.
Càng niệm Phật, con nhận ra tình thương của Phật A Di Đà thật bao la, vô hạn. Hình ảnh Phật A Di Đà đứng trên tòa sen sáng lòa, duỗi cánh tay vàng tiếp độ luôn hiện ra trước mắt mỗi khi con niệm danh hiệu Ngài. Ngài thật cao cả và nhân từ, như một người cha, người thầy luôn soi sáng cho cuộc đời con. Với con, Phật A Di Đà không chỉ ở Tây phương mà ở ngay trong cõi Ta bà này. Ngài không chỉ cứu vớt những thần thức đọa lạc, tiếp dẫn họ vãng sanh mà còn luôn an ủi, soi sáng và thức tỉnh cho con cùng biết bao nhiêu người khác.
Giờ đây, con tin tưởng tuyệt đối vào Phật A Di Đà, cảnh giới Cực lạc thù thắng với vô vàn cảnh đẹp, thanh tịnh và trang nghiêm. Con luôn nguyện được sanh về Tịnh độ nên cố gắng xây dựng nền móng Tịnh độ trong cuộc sống hàng ngày. Sống với niềm tin trọn vẹn vào Phật A Di Đà, con cảm nhận sâu sắc năng lực cứu độ vô biên của Ngài. Chỉ một câu niệm Phật thôi, mà con hằng được soi sáng, chỉ dẫn và có nơi nương tựa. Cho đến một ngày, con nhận ra rằng “Tâm tịnh tức độ tịnh” hay nói cách khác “Đây là Tịnh độ/Tịnh độ là đây”.
Đúng là Tịnh độ ở Tây phương nhưng Tịnh độ cũng ở ngay đây và bây giờ khi tâm con bình an, vắng lặng và thăng hoa trong âm ba vang vọng điệp trùng Nam mô A Di Đà Phật. Sự đời thì vẫn cứ như nhiên, trôi đi với bao buồn vui thăng trầm nghiệt ngã. Con cũng đang xuôi trong dòng sông đời đó thôi nhưng sao tâm con bình an đến lạ, có thể vì con đã nắm được chiếc phao Thánh hiệu A Di Đà.
Cuộc đời con, rồi đây sẽ có những cái được thêm lên và cũng có nhiều thứ sẽ mất đi nhưng chắc chắn rằng câu niệm Phật thì luôn đọng lại, không thêm bớt. Tuy chưa được “Nhất tâm bất loạn” nhưng con nguyện hằng tâm niệm Thánh hiệu A Di Đà. Mỗi câu niệm Phật là một đóa sen, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Luôn tưới tẩm và thắp sáng những đóa sen Thánh hiệu Phật ngay trong cuộc sống này, thì rõ ràng Cửu phẩm Liên hoa cũng chẳng ở đâu xa.
BẠCH VÂN
Nguồn http://www.giacngo.vn

Lợi ích của pháp môn Niệm Phật

Niệm Phật là một phương   pháp tu tập rất quen  thuộc với người học Phật ở Việt Nam chúng ta. Pháp môn Niệm Phật còn được gọi là pháp môn Tịnh độ. Nó quen thuộc đến độ hễ nghe nhắc đến pháp môn Niệm Phật là người ta nghĩ ngay đến phương pháp trì niệm Hồng danh Đức Phật A Di Đà.




Trong nhiều pháp môn tu thì đây có thể nói là một pháp môn dễ hành trì và hành giả có thể cảm nhận được sự lợi ích từ pháp tu của mình ngay trong hiện tại cũng như trong tương lai. Trong kinh Niệm Phật Ba-la-mật, Bồ tát Quán Thế Âm đã xác quyết rằng: “Pháp Niệm Phật tam muội là pháp thành Phật, là pháp chứng Vô thượng giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất tư nghì của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ tri kiến Như Lai, là pháp cứu độ tất cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hý luận cùng thiên kiến của nhị thừa”.
Trong xã hội hiện tại, theo như trong kinh điển gọi là thời mạt pháp, có rất nhiều chướng duyên, con người phần nhiều thường hay giãi đãi, hay thối thất chí nguyện hướng thiện và hướng thượng của mình, cho nên có thể nói rằng tu tập pháp môn Niệm Phật là phù hợp hơn cả. Như Thiền sư Thiên Như đã dạy: “Ðời mạt pháp về sau, các kinh sách đều bị tiêu mất hết, chỉ còn lưu lại bốn chữ A Di Ðà Phật để cứu độ chúng sinh mà thôi”. Qua đó cho chúng ta thấy pháp môn Niệm Phật có vai trò quan trọng và có sức ảnh hưởng sâu rộng đến mức nào. Sở dĩ pháp môn Niệm Phật có được sức ảnh hưởng lớn như vậy là vì nó đem lại nhiều lợi ích cho hành giả ngay trong giờ phút hiện tại và cả trong tương lai.
Trước hết, người niệm Phật sẽ có được sự an lạc, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Ngay trong lúc chúng ta chuyên tâm trì niệm Hồng danh Đức Phật Di Đà, tâm không còn chạy theo những ý niệm bất thiện, những tư tưởng loạn động, không còn bị những tâm niệm tham lam, sân hận và si mê quấy nhiễu. Tâm của chúng ta ví như một căn phòng, và trì niệm Hồng danh Đức Phật là thắp lên trong căn phòng tâm thức của chúng ta một ngọn đèn, khi ánh đèn sáng tỏ đã được thắp lên thì bóng tối trong gian phòng ấy sẽ tự nhiên bị đẩy lùi, bị tiêu mất. Hơn nữa, khi ta niệm Phật thì tâm trí không còn nhớ nghĩ đến những điều xấu xa, miệng và thân không tạo ra nghiệp ác. Một giờ niệm Phật, là một giờ không tạo nghiệp bất thiện; một ngày chuyên niệm Phật, thì trong ngày đó chúng ta tránh được các nghiệp ác. Không tạo các nghiệp ác cũng đồng nghĩa là tâm không bị giày vò bởi những lo âu, phiền muộn, do vậy mà chúng ta cảm thấy hạnh phúc, an vui.
Hơn nữa, khi lòng của chúng ta được an tĩnh thì tâm trí thường sáng suốt, minh mẫn. Nhờ vậy mà chúng ta phát huy được khả năng sáng tạo của mình đồng thời có thể đưa ra được những giải pháp đúng đắn, phù hợp để giải quyết những vấn đề khó khăn trong đời thường cũng như trong công việc. Vả lại, khi tu tập pháp môn Niệm Phật, chúng ta tưởng nhớ đến Đức Phật, đến những công hạnh của Ngài, quán chiếu về những phẩm tính cao quý của Ngài, những thứ đó sẽ dần dần thẩm thấu vào trong tâm thức, từ từ chuyển hóa những ý nghĩ, hành động và lời nói của chúng ta theo chiều hướng thiện lành. Nhờ vậy mà thân tâm được thanh lọc dần dần, và những phẩm hạnh cao quý được trưởng dưỡng ở trong ta. Hay nói cách khác, tu tập pháp môn Niệm Phật sẽ giúp chúng ta hoàn thiện bản thân mình, xây dựng cho mình một nhân cách đạo đức tốt, có được một cuộc sống hiền lương, thánh thiện.
Bên cạnh đó, tu tập pháp môn Niệm Phật sẽ làm vơi đi tâm sầu muộn. Trong những lúc buồn phiền, đau khổ, trong khi gặp nghịch cảnh như: lúc tử biệt sinh ly, lúc con cái hư hỏng, nhà cửa tiêu tan, kinh tế suy thoái, vợ chồng bất hòa, bạn bè phụ bạc, v.v... nếu chúng ta niệm Phật thì những điều buồn phiền, đau khổ ấy sẽ dần dần vơi đi. Vì khi niệm Phật, chúng ta không còn nhớ nghĩ đến những điều đau buồn ấy nữa. Hơn nữa, khi niệm Phật như thế, chúng ta tưởng nhớ đến đức hạnh của Ngài, những giáo lý Ngài đã dạy như là Vô thường, Tứ đế, Nhân quả,… thì sẽ có một cách nhìn nhận mới đối với những khổ đau, phiền muộn của chúng ta. Nhờ vậy mà ta không còn bị chi phối nhiều bởi những khổ đau, phiền muộn ấy nữa.
Không những thế, niệm Phật còn là một phương pháp an tâm rất hiệu quả. Những lúc bị lo âu, hồi hộp và bất an, để trấn an bản thân thì chúng ta nên niệm Phật, đưa tâm của mình về với câu Phật hiệu, nhờ vào sự nhất tâm trì niệm của bản thân cộng với sự gia trì của chư Phật, chúng ta dễ dàng tìm lại được sự an tĩnh. Đây là một điều lợi ích rất thiết thực của pháp môn Niệm Phật. Dù là ai đi nữa, nếu biết dùng câu Phật hiệu để tìm lại sự an tĩnh của tâm hồn thì đều dễ dàng đạt được kết quả như ý muốn. Cũng chính vì lợi ích này mà đôi khi có những em nhỏ đã đến với đạo Phật, biết đến câu Phật hiệu một cách rất dễ thương, rất hồn nhiên. Các em nhỏ thường hay sợ ma, nhất là đi vào những đoạn đường tối tăm một mình vào ban đêm. Thế nhưng vì hoàn cảnh, vì công việc mà buộc các em phải đi qua con đường đó chứ không còn con đường nào khác. Trong trường hợp như thế, có những ông bà, cha mẹ đã chỉ dạy các em niệm Phật. Họ bảo rằng, những lúc sợ ma, những lúc cảm thấy lo âu thì con nên niệm Phật, Đức Phật sẽ che chở cho con, gia hộ cho con thoát khỏi mọi hiểm nguy. Hoặc là lúc các em đi thi, các em cũng thường bị hồi hộp, bất an, để giúp con mình giữ được bình tĩnh, có những bậc phụ huynh đã dạy cho các em niệm Phật để lấy lại bình tĩnh, để được chư Phật gia hộ. Với niềm tin rất mộc mạc, dễ thương như thế, các em đó đã niệm Phật, để tìm lại sự an ổn cho tâm hồn. Như vậy, câu Phật hiệu đã trở thành một phương tiện hữu hiệu dẫn dắt các em vào đạo, hướng các em đến với con đường chân thiện mỹ.
Cùng với những ích lợi trên, tu tập pháp môn Tịnh độ còn giúp cho hành giả có được sự bình tĩnh trước những chướng duyên trong cuộc sống, và nhất là có được sự an định trong giờ phút lâm chung. Cận tử nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong sự tái sinh, sau khi kết thúc sinh mạng trong hiện tại. Người thiếu tu tập thì tâm thường rất hoảng loạn trong giờ hấp hối, khi đối mặt với tử thần, vì họ không biết mình sẽ đi đâu, về đâu, họ không nỡ dứt bỏ trần duyên, không đành từ bỏ những người thân yêu của mình, lại bị sự đau đớn, dày vò của thể xác nữa. Sự hoảng loạn và bám víu ấy sẽ khiến cho họ phải bị thác sinh vào những cảnh giới không mấy tốt đẹp. Nếu là người đã từng chuyên tâm tu tập pháp môn Niệm Phật, đã từng niệm Phật với niềm tin sâu sắc, với tâm nguyện chí thành, và với sự thực tập chuyên nhất thì trong giờ hấp hối lòng họ không hề nao núng, không chút hoảng loạn, vì họ hiểu rõ tính giả tạm của cuộc sống và tin chắc rằng họ sẽ được Đức Phật Di Đà phóng quang tiếp dẫn về thế giới Cực lạc.
Câu Phật hiệu còn là điểm tựa tinh thần vững chắc nhất cho những người có niềm tin vào Tam bảo, niềm tin vào tha lực gia hộ và che chở của Đức Phật A Di Đà khi họ rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng, không còn biết trông cậy, tin tưởng vào ai, không còn làm chủ được tình huống khi lực bất tòng tâm. Chẳng hạn như khi người thân của mình đang lâm trọng bệnh, chưa biết sống chết thế nào, khi họ phải đối mặt với tử thần. Trong những lúc ấy thì câu Phật hiệu là một liều thuốc vô giá đối với họ. Đặc biệt vào những lúc như thế thì mọi người thường niệm Phật vô cùng tha thiết và chí thành. Chính vì vậy mà chẳng những bản thân người niệm Phật được an tâm mà người thân của họ cũng được Phật lực gia hộ.
Còn có một điều lợi ích nữa của sự tu tập pháp môn Niệm Phật, đây cũng là mục đích chính yếu và lợi ích cao quý nhất của pháp môn này, đó là người tu pháp môn Niệm Phật đúng cách sau khi kết thúc đời sống hiện tại sẽ được vãng sanh về cõi Cực lạc. Vãng sanh Cực lạc thì chúng ta không còn phiền não, không bị bệnh tật, già yếu, lại còn được hưởng những niềm phúc lạc vô biên, và còn có điều kiện tốt, môi trường và hoàn cảnh tốt, bạn tốt để tu hành, chứng đạt quả vị giải thoát, giác ngộ, để rồi từ đó có đủ năng lực giáo hóa chúng sanh trong khắp mười phương.
Pháp môn Niệm Phật có những lợi ích thiết thực và cao đẹp như thế, cho nên Đại sư Ưu Đàm đã viết bài thơ để khuyến tấn mọi người rằng:
Đống xương sanh tử dường non cả,
Giọt lệ chia ly nước biển đầy!
Thế giới ngày kia rồi cũng hoại,
Đời người khoảnh khắc chớ mê say.
Cái thân nam nữ ngàn phen đổi,
Mà kiếp sừng lông vạn lúc thay.
Muốn khỏi luân hồi nhiều khổ hận,
Phải tu Tịnh độ gấp khi này.
Minh Nguyên
Nguồn http://www.giacngo.vn

Cảnh giới Tịnh Độ môi trường tu học hoàn hảo

Phật thì như thể mẹ cha
Con mà nhớ mẹ, mẹ nào bỏ con”
Từ xưa đến nay có hai quan điểm khác nhau về thế giới Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Một quan điểm cho rằng có một cõi Cực lạc thật cách cõi Ta bà của chúng ta về hướng Tây chừng mười muôn ức Phật độ như được ghi trong kinh A Di Đà. Quan điểm thứ hai cho rằng Cực lạc là thế giới của tự tâm “Duy tâm Tịnh độ”. Cõi lòng mình thanh tịnh thì đó là Cực lạc chứ làm gì có một Phật quốc như thế bên ngoài. Những người theo quan điểm này đã giải thích thế giới Cực lạc thuần về mặt lý. Họ giải thích hiện tượng “hoa khai kiến Phật” có nghĩa là mọi chúng sanh đều là hoa sen cả (kinh Pháp Hoa), từ hạ hạ phẩm cho đến thượng thượng phẩm tất cả có chín phẩm là biểu thị mức độ “nở hoa” của hành giả. Nở hoa ít là giác ngộ  ít, nở hoa nhiều là giác ngộ nhiều, cho đến nở toàn phần là thành Phật. Hoặc 1 trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà là “Nếu có chúng sanh nào niệm danh hiệu Ta từ một tới mười niệm mà không được vãng sanh thì Ta quyết không thành Chánh giác” có nghĩa rằng: Phật là giác, cho nên niệm Phật là niệm giác, trái với niệm chúng sanh là niệm mê. Từ mê sang giác tức là vãng sanh đó.
Còn đối với những người tin có một cõi Tịnh độ thật thì không cần phải lý luận nhiều, vì đã có sẵn “giấy trắng mực đen” là các kinh luận về pháp môn Tịnh độ như kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ… cộng thêm các “kỳ tích” như niệm Phật biết trước ngày giờ vãng sanh… nhiều không kể xiết. Sự tranh luận giữa hai quan điểm đó chẳng khác gì sự tranh luận giữa Duy tâm và Duy vật trong triết học, có thể nói là bất phân thắng bại.

Có hay không một cõi Cực Lạc ở phương Tây? Đối với vấn đề này bản thân người viết cũng có những suy tư. Nay xin được sẻ chia, để gọi là sách tấn nhau trên đường tu tập vậy.
Giáo lý Phật giáo cho ta biết rằng thế gian này có mười pháp giới là Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, Trời, Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ quỷ và thấp nhất là cảnh giới Địa ngục. Mười pháp giới này được xét theo hai phương diện. Một là chỉ cho những trạng thái tâm lý của chúng sanh. Khi tâm ta thanh tịnh thì đó là Phật, tâm từ bi là Bồ tát, tâm hay quán nhân duyên các pháp là Duyên giác, tâm thích an trú vào sự tịch tịnh một cách yểm ly đối với cuộc đời là Thanh văn, tâm thánh thiện là chư Thiên, tâm nhân ái với người thì là Người, tâm nóng giận, hiếu chiến là A tu la, tâm tham ăn là Súc sanh, tâm bỏn xẻn là Ngạ quỷ, tâm độc ác là Địa ngục. Ở phương diện thứ hai, xu hướng tâm đó sẽ quy định con đường dẫn đến tái sanh vào cảnh giới tương ứng sau khi chết. Ví dụ người giữ ngũ giới, sống tròn bổn phận làm người  thì trở lại làm người, người tham lam bỏn sẻn thì chết sanh làm ngạ quỷ… Qua đó chúng ta thấy rằng có cảnh giới “Lý” ở trong tâm con người mà cũng có cảnh giới “Sự” ở ngoài tâm con người. Có trạng thái Sơ thiền: “Ly dục, ly bất thiện pháp, có tầm, có tứ, chứng và trú thiền thứ nhất” thì cũng có cõi trời thuộc Sắc giới tương ứng để cho người đạt được loại thiền định đó sanh vào sau khi bỏ báo thân người. Nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ định… đều có những cảnh trời tương ứng ở Sắc giới và Vô sắc giới. Trên cơ sở đó cho phép ta suy luận về vấn đề Tịnh độ và Uế độ cũng không khác. Nghĩa là có “Lý” Tịnh độ ở trong tâm mà cũng có “Sự” Tịnh độ ở bên ngoài. Ngoài ra có một điều mà hầu như những người chủ trương “Lý Tịnh độ” đều quên, đó là họ nói “Duy tâm Tịnh độ” nên không có Tịnh độ bên ngoài, vậy thử hỏi tâm uế trược của chúng sanh ở cõi Ta bà há lại không có cõi Ta bà thật sự sao? Tôi đã trăn trở về điều này trong một thời gian dài, cho đến khi đọc Ngữ lục của Đại sư Ấn Thuận, tôi lại càng xác tín thêm suy nghĩ của mình trước đó. Đại sư nói: “… Từ trên đã biết Tịnh độ không những có mà còn rất vui, lại có sự thù thắng riêng biệt. Giới Phật giáo lại nói “Duy tâm Tịnh độ”, cho rằng Tịnh độ chỉ ở trong lòng người, ngoài tâm thật không có Tịnh độ. Nói pháp như thế rất trái với ý của Phật. Phải biết thế giới chỉ do tâm hiện, nói thế cố nhiên là đúng, nhưng đã nói như vậy thì phải biết uế độ cũng chỉ do tâm niệm. Nay thừa nhận uế độ chỉ do tâm hiện là thực hữu hiện tiền, tại sao không thừa nhận Tịnh độ chỉ do tâm hiện là có thật. Cố nhiên đã tin Tịnh độ thì phải tin sự có thật của nó, không được chấp lý bỏ sự” (Nhựt Chiếu dịch, Ngữ lục của Đại sư Ấn Thuận. NXB Phương Đông, 2009, tr.120). Thật là một nhận định vô cùng xác đáng!




Trong các kinh Đức Phật đều dạy rằng vũ trụ này có vô số vô lượng cõi nước (khoa học ngày nay cũng xác nhận có hàng tỷ dải Ngân hà, mỗi dải lại có hàng tỷ hành tinh), như  cõi nước của Đức Phật Dược Sư, cõi nước của các hàng chư Thiên… Chúng ta chấp nhận các cõi nước đó, chấp nhận tất cả (kể cả hành tinh của chúng ta) mà hoài nghi cõi nước Tây phương. Như vậy liệu có khắt khe, bất công đối với Đức Phật A Di Đà lắm không? Tôi cho rằng vũ trụ đã có vô lượng vô số thế giới, có hàng tỷ tỷ hành tinh như thế thì việc có thêm một cõi nước Cực lạc nữa cũng không ngại gì. Cho nên đối với tôi, sự hiện hữu của cõi Tây phương Cực lạc là hoàn toàn có thể.
Riêng bản thân, tôi có một sự hâm mộ rất sâu xa đối với Tỳ kheo Pháp Tạng cũng như đối với cõi nước của Phật A Di Đà. Kinh điển Phật giáo cho biết rằng, thế giới được hình thành do hai sức mạnh, nguyện lực của chư Phật, Bồ tát và nghiệp lực của chúng sanh. Đối với một người xuất gia bình thường như tôi mà còn có ước muốn một hoàn cảnh tu học bình yên, thì một bậc đại nguyện như Tỳ kheo Pháp Tạng có tâm nguyện trang nghiêm Tịnh độ, được chứ? Và cõi Cực lạc chính là kết quả của nguyện lực đó.
Trong Phật giáo có rất nhiều tông phái, thực chất đó là những pháp môn tu khác nhau. Tôi thấy trong các kinh A hàm hay Nikàya, Đức Phật cũng tùy theo đối tượng mà đưa ra phương pháp tu học khác nhau, có khi gần như đối lập nhau nữa. Ví dụ như khi có ngoại đạo trình bày sở tu của họ là mắt không cho thấy sắc, tai không cho nghe tiếng… thì Đức Phật bảo rằng như vậy người đui người điếc là những người tu giỏi nhất. Và Ngài cho biết rằng, mắt không phải là kiết sử của sắc, mà sắc cũng không phải là kiết sử của mắt… mà chính là “dục tham” trói buộc chúng sinh. Ví như con trâu này không trói buộc con trâu kia mà chính là cái ách giữa chúng ràng buộc chúng lại với nhau. Nhưng ở trường hợp khác, Đức Phật lại dạy chúng ta phải phòng hộ các căn của mình như con rùa giấu tứ chi và đầu của nó vào trong mai. Có một bài thơ rất hay nói về hạnh viễn ly như sau:
“Tăng ở thành thị Phật tổ la
Tiên hiền chư vị ẩn non mà
Nguồn trong trên núi nhân gian chảy
Thanh thủy trở thành sóng đục ra”.
Có người nói rằng tâm mình tịnh thì ở đâu cũng tịnh, hà tất phải Đông phương hay Tây phương, điều này đúng. Nhưng nếu như tâm mình chưa tịnh thì cần một hoàn cảnh tịnh để tịnh tâm mình, thì có gì là sai? Và thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà là một môi trường tu học hoàn hảo, cả vật chất  lẫn tinh thần, cả sinh hoạt lẫn tu học, cho những ai muốn có một hoàn cảnh thuận lợi để tịnh hóa tâm mình đó vậy.
Tuy nhiên cũng phải nói rằng, tâm và cảnh càng phù hợp bao nhiêu thì càng dễ vãng sanh bấy nhiêu. Cho nên tôi cũng thường tâm niệm rằng, trước khi vãng sanh qua Tây phương thì ở tại nơi đây, mỗi ngôi chùa (đối với người tại gia thì đó là ngôi nhà) cần được xem như là một cõi Cực lạc, để hết thảy mọi người đều được an vui tu hành và bất thối chuyển đạo tâm.

HỮU HUỆ

Nguồn http://www.giacngo.vn

Thư cho người em Tịnh độ

Lời đầu sách
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề, nhằm giải quyết những thắc mắc, lo âu của hành giả mới phát tâm tu Tịnh nghiệp, để lòng tin được sâu chắc, phát nguyện, thực hành.


   Toàn tập gồm có mười bài. Ba bài đầu gọi thức những khách mộng mê, chỉ cho pháp dễ làm và giải hết nghi để có lòng tin vững chắc. Hai bài kế là từ lòng tin đã vững, khởi tâm quyết định, nguyện rộng độ tất cả chúng sinh. Năm bài cuối nói về tin, nguyện đã đủ, liền gắng sức thực hành bằng cách đoạn ái dục để diệt hiện hành phiền não, tinh chuyên niệm Phật chánh hạnh, đồng thời cùng tu các trợ hạnh để phước huệ viên mãn, khi lâm chung chắc được vãng sinh.

   Sách được trình bày theo hình thức đàm thoại thân mật giữa người anh và đứa em tu Tịnh độ. Đặc biệt nhất là những ý kiến mà người anh đưa ra để giải quyết vấn đề, không phải ý riêng mà đó là lời ân cần khuyên bảo của chư cổ đức. Chính các Ngài đã thân chứng và đã được vãng sinh Cực lạc. Do đó, những lời dạy của các Ngài sẽ đem lại cho hành giả một niềm tin vững chắc.


   Tập luận này tuy lời ít nhưng chứa đựng tất cả ý nghĩa của pháp môn niệm Phật, nếu người xem để tâm suy ngẫm kỹ, có thể đi thẳng vào chỗ nhiệm mầu của môn niệm Phật. Đây là cánh sen nhỏ, chân thành kính tặng các bạn sen trong mùa kiết hạ an cư này.
                                                                                    Mùa an cư Nhâm Tuất, 1982
                                                                                        Hồng Nhơn cẩn bút

Lắng nghe tiếng hát sông Hằng (2)

(tiếp theo)


Có một bịnh nhân vốn là một người bán thịt heo, thường ngày đối xử với mọi người rất tử tế; nghề mổ heo là do cha mẹ truyền lại, ông nói: “Chúng tôi không thể đổi nghề và cũng không biết là nên đổi nghề khác”.  Thuở nhỏ có người dạy ông niệm A Di Ðà Phật, nên mỗi lần ông nhìn thấy tượng Phật thì đều chắp tay niệm ba tiếng ‘A Di Ðà Phật’.   Ðiều đáng quý là ông nói ông không cầu nguyện gì cho mình cả mà hy vọng đức Phật phò hộ cho tất cả chúng sanh; ông nói: “Ðức Phật làm sao chỉ phò hộ cho một mình tôi được chứ”.  Quan niệm này thật rất đúng.  Tuy đã làm nghề này lâu rồi nhưng tâm địa của ông rất hiền lương; ông không biết giết heo là làm hại chúng sanh thì phải chịu quả báo không tốt.   Ông bị ung thư hàm dưới, qua một thời gian sau nguyên cả cuống họng cũng bị ung thư lan đến, tuy có chữa trị nhưng cũng tái phát trở lại.  Mỗi đêm ông nằm trên giường rên rỉ, hít thở rất khó khăn và phát ra âm thanh như kéo cưa vậy.  Trong miệng có đàm không thể khạc ra và không thể nuốt xuống, cuống họng như bị xiết cứng lại nên mỗi lần thở mạnh thì rất đau. Ông nói lúc đó ông mới biết được sự đau khổ của con heo vừa bị làm thịt; ông thật tâm sám hối.   Ông ăn không được nên phải đút ống (vào miệng để dẫn thức ăn lỏng).  Trên quan niệm thì ông đã hiểu rõ và phát tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh độ; sắc mặt của ông khác hẳn với những bịnh nhân khác, ông không thường âu sầu.  Ông nói: “Nhờ bác sĩ xem thân thể tôi có bộ phận nào còn dùng được, đôi mắt của tôi có thể quyên cho người khác không?  Tim tôi còn tốt không?  Có thể quyên cho người không?  Nếu quyên được thì xin quyên, tại vì hy sinh một mình tôi không quan trọng lắm, nếu có thể làm cho người khác sung sướng thì rất quý”.  Tôi nói: “Tâm của ông thiệt rất giống tâm địa của Bồ Tát.  Ðời của mỗi người có thể làm gương cho người khác, đôi mắt của ông chỉ có thể cho một người duy nhất.  Người đó có đôi mắt này sẽ nhìn thấy mọi sự vật, nhưng sau khi nhìn thấy không biết người đó sẽ ‘vui’ hay ‘giận’.  Nếu dùng đôi mắt này để nhìn những thứ làm cho người đó phẫn nộ thì rất đáng tiếc.  Một người tiếp nhận đôi mắt thịt này chưa chắc sẽ sung sướng.  Nếu không biết dùng thì giải phẫu thay tim cũng không thể làm cho người hạnh phúc, nếu người đó không hiểu rõ được đạo lý chân chánh”.  Ý tôi không phải phản đối không cho người giải phẫu thay bộ phận trên thân thể.  Nhưng người có thể chịu đau trong lúc mổ xẻ mà không sanh tâm sân giận hay hối hận cần phải có ‘đạo lực’ rất lớn; hơn nữa, tuy là người bị bịnh ung thư có lòng tốt và quyên tặng bộ phận trên thân thể khi họ còn sống, nhưng người tiếp nhận có ngại sau khi nhận bộ phận này sẽ bị ung thư không?  Ông có lòng tốt như vậy rất đáng quý, tôi không thể ngăn cản ông được, chỉ nói với ông là: “Bây giờ ông nên niệm Phật gấp rút để vãng sanh đến tây phương Cực Lạc thế giới và sau đó theo nguyện vọng trở lại độ chúng sanh; chỉ cần lúc này ông nỗ lực niệm Phật để đến phút cuối có thể bước chân lên đài sen, ông sẽ làm gương tốt cho rất nhiều người, và làm cho họ hiểu được sự thù thắng của cõi Cực Lạc”.   Ông nói suốt đời ông làm nghề này, lúc ban đầu vì tình trạng kinh tế trong gia đình bắt buộc, nếu không làm (giết heo) thì không có tiền sinh sống.  Sau này tính lại số tiền ông kiếm được làm nghề này không đủ để ông trả tiền nằm nhà thương mà trái lại còn thiếu nợ nữa, làm cho đời sống càng khó khăn thêm.  Người ta thường viện cớ ‘không làm như vậy không được’, tuy biết là làm như vậy không đúng với Phật pháp mà cũng tiếp tục làm.  Ðợi đến một ngày nào đó phát hiện ra ‘không được nữa’ quay đầu nhìn lại mới biết làm như vậy kiếm không được bao nhiêu nhưng cuối cùng phải mang bịnh và đau khổ, phải trả bằng một giá quá đắt, thiệt không đáng chút nào.  Lúc ông nằm bịnh viện có một số liên hữu lại giới thiệu Phật pháp và giúp ông niệm Phật.  Sau khi về nhà và mấy ngày trước khi ông mất, ông nhờ người nhà kiếm họ tiếp tục trợ niệm.  Vài người ở Y Vương Học Xã và bà chủ nhà trọ của tôi đều đến trợ niệm cho ông.  Nghe nói ông mỉm cười và niệm Phật mà đi.  Họ càng niệm Phật thì ông càng cười tươi hơn.  Xong rồi họ nói với tôi: “Chúng tôi trợ niệm cho ông, ông mỉm cười nhìn chúng tôi.  Sau tám giờ đồng hồ ông cũng vẫn còn mỉm cười nhìn chúng tôi”.
Có câu thơ như vầy:
‘Tự thị bất quy, quy tiện đắc
Cố hương phong nguyệt hữu thuỳ tranh’
(Không chịu quay về, về được ngay,
Gió trăng quê cũ kẻ nào tranh?)
Nụ cười của ông khi ‘quay về cố hương’ thật là sự an ủi và khích lệ cho những người đang vùng vẫy bàng hoàng bên bờ sanh tử.  Nụ cười cuối cùng của ông là nụ cười vô cùng hiếm hoi và trân quý.
Những câu chuyện kể trên đều là hình ảnh của sông Hằng.  Tất cả các hình ảnh của dòng sông ‘sanh tử’ này đã làm cho đức Phật Thích Ca cảm thấy rất nhức đầu.  Ngài đã nhìn thấy những hình ảnh của sanh, lão, bịnh, tử và suy nghĩ để tìm cách cứu giúp chúng sanh xa lìa biển khổ sanh tử.  Trải qua một quá trình tu trì gian khổ dưới bóng cây Bồ đề, ngài đã giác ngộ được tất cả đạo lý của nhân sanh vũ trụ.  Bắt đầu chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển, thuyết pháp Tứ Ðế (Khổ, Tập, Diệt, Ðạo) cho nhóm năm tỳ kheo đầu tiên (nhóm ông Kiều Trần Như).  Ngài nói cho họ biết ‘nhân sanh’ có các thứ khổ như thế nào, nguyên nhân của khổ là gì, phương pháp thoát khổ là gì, và sau khi thoát khổ thì sẽ ra sao. Tôi nghĩ đây là cuộc diễn giảng về y học hoàn hảo nhất trong lịch sử nhân loại.  Ðức Phật là một người thầy thuốc vĩ đại nhất, ngài đã giảng cho chúng ta phương pháp vĩnh viễn miễn trừ những sự đau khổ này!  Như tia sáng lóe ra từ trong đêm dài đen tối, giác ngộ là một con đường vô cùng xinh đẹp, con đường đi về cố hương, đi trở về với Phật tánh thanh tịnh vốn sẵn có của mỗi người.  Ðức Phật Thích Ca mỗi ngày đều kêu gọi chúng ta mau mau lên đường đi về quê hương.  Ngài muốn chúng ta tháo mở những phiền não đang trói buộc chúng ta để đi đến sự an lạc viên mãn.  
Quý vị muốn nối gót đức Phật lên đường về quê hương không?  Có nhiều người đi theo đức Phật và đã giác ngộ rồi.  Xin quý vị xem hình của lão hòa thượng Hư Vân, chỉ cần nhìn thần sắc của ngài, chỉ cần nhìn phong độ phi phàm của ngài mà không cần xem truyện ký, chúng ta cũng cảm nhận được tấm lòng của ngài rộng lớn như thế nào mới có thần sắc như vậy?  Tôi đã nghe một pháp sư kể lại vào năm thầy của pháp sư 36 tuổi, lão hòa thượng lúc bấy giờ đã 106 tuổi, hai người đi qua một con sông, cây cầu bắt ngang sông làm bằng hai cây trúc hợp lại.  Vị thầy trẻ tuổi này không dám đi qua, lão hòa thượng nắm lấy cổ áo của ông nâng lên như thế rồi khiêng ông đi qua sông.  Hai chân của ông còn đá tới đá lui sợ hết hồn, lão hòa thượng một nháy mắt cũng không chớp thì đã khiêng ông đi qua cầu.  Nguyên câu chuyện này quý vị có thể đọc được trong niên phổ truyện ký, ở đây chúng ta chỉ nhắc đến một chút, mọi người có thể từ đó mà suy nghĩ.  Hãy nhìn xem những người nối gót theo chân đức Phật, họ làm thế nào mà ‘sanh thời lệ tợ hạ hoa, tử thời mỹ như thu nguyệt’?  Lúc sống đẹp như hoa mùa hạ, lúc chết đẹp như trăng tròn mùa thu chiếu sáng khắp nơi.
Thêm một vị đại đức gần đây nhất là lão hòa thượng Quảng Khâm, mọi người đều xưng tán ngài là ‘bảo vật’ trong Phật giáo.  Ðây là di ảnh chụp lúc ngài 95 tuổi, hai ngày trước khi vãng sanh, đôi mắt sáng và vô cùng sắc sảo.  Năm lão hòa thượng 92 tuổi, tôi có dịp theo ngài đi lên núi; ngài đi ở phía trước từng bước rất vững vàng và nhanh chóng.  Tôi đi theo phía sau thiệt rất mệt mới theo kịp.  Lúc đó chùa Thừa Thiên còn đang xây cất chưa xong, khi đi qua một đoạn đường có nhiều vật chướng ngại, xém chút xíu tôi bị té, ngài quay đầu lại nói: “Con phải đi cẩn thận nghen!”, giọng nói của ngài khàn khàn nhưng có oai lực, ánh mắt nghiêm nghị nhưng chứa đựng lòng từ bi vô hạn.  Tôi rất hổ thẹn; bây giờ trên đường đời đã vấp ngã bao lần, đã gặp phải nhiều chướng ngại, nhớ lại lời ngài nói thì tự nhiên lệ đẫm ướt mi lúc nào không biết.
Có người tưởng ngài rất là huyền bí nên muốn đi ‘điều tra’ cặn kẽ.  Ðến khi nghe ngài nói chuyện hết nửa ngày chỉ nghe toàn là những từ ngữ như: ‘niệm Phật’, ‘đừng ăn thịt’ nên trong bụng thầm nghĩ: ‘tôi cũng biết nói như vậy, cần gì phải hỏi lão hòa thượng!’.  Thật không sai, ai cũng biết nói như vậy, nhưng chúng ta không ai đã từng trải qua sự tu hành khổ hạnh, công phu thứ thiệt như ngài, lại không có đủ đức hạnh để cảm hóa người khác.  Cho dù có nhiệt tâm để khuyên người, người ta còn chê mình là ‘nhiều chuyện’ nữa.   Ngài đã hàng phục được mình, đã hạ thủ công phu rất sâu trong sự tu niệm nên tự nhiên cảm hóa được hàng vạn người.  Lúc ngài còn trẻ tu hành ở trong hang trên núi, khi lương thực đem theo đã hết thì chỉ nhờ vào khoai rừng và rễ cây để duy trì mạng sống.  Ba chiếc áo vá đi vá lại đến khi chỉ còn một chiếc, suốt sáu mươi năm chỉ ngồi không nằm, đối với vật chất yêu cầu rất thấp.  Lúc còn trẻ ở chùa Thừa Thiên thầy của ngài là Chuyển Trần lão hòa thượng có dạy ngài như vầy:
Ăn những thứ mà người khác không ăn, mặc những thứ mà người khác không [muốn] mặc, làm những gì mà người khác không làm, sau này thì ông mới biết”. 
Thầy của ngài chỉ dạy ngài tu khổ hạnh và chuyên niệm Phật.  Ngài làm theo những lời dạy này một cách rất thật thà, hạ thủ công phu trên tâm địa mình, rốt cục ngài trở thành một vị rất là phi phàm; rất nhiều người vừa mới gặp liền cảm động, mến phục, và rất kính trọng ngài.
Những lời ngài khai thị thường thường chỉ là một vài câu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng; nếu chúng ta tin theo được thì nhất quyết sẽ không lãng phí đời này.  Như phía trước có nói: ‘niệm Phật’ và ‘đừng ăn thịt’.  Nếu chúng ta trong mỗi niệm đều niệm Phật, làm cho đại quang minh, trí huệ, từ bi, và giác ngộ của chư Phật bất kỳ lúc nào cũng tràn đầy trong tâm khảm của mình; như vậy không phải là lúc nào cũng kiết tường hay sao?  Không còn sự đau khổ của ‘nhân, ngã, thị, phi’, không chịu sự hành hạ của tham, sân, và si nữa.  Nếu giảm bớt sự ham thích ăn uống và làm theo lời dạy của ngài: ‘đừng ăn thịt’ thì từ từ sẽ thể hội được đạo lý: ‘cùng một gốc rễ’ (cùng bản thể), sẽ thưởng thức được sự hỷ duyệt (vui sướng ) của lòng từ bi; mỗi ngày trong lòng đều điềm đạm, bình thản, mộc mạc, tin sâu, nguyện thiết và niệm Phật cầu sanh tây phương; lúc lâm chung sẽ nhờ sức Phật tiếp dẫn, thoát khỏi sự đau khổ đời đời kiếp kiếp của sanh tử luân hồi!  Hai câu nói đơn giản của ngài đã chỉ ra con đường sáng rỡ thành Phật ngay trong một đời.  Ai thật thà chịu nghe, tin, và làm theo thì sẽ được lợi ích lớn; người không thật thà chỉ thích nói lý thuyết cao siêu, làm những chuyện kỳ quái, phô trương một số thần thông mà lại xem thường lời dạy quan trọng nhất này thì sẽ đánh mất cơ hội quý báu để thoát ly sanh tử luân hồi.
Ðệ tử của lão hòa thượng thuật lại lúc ngài còn tại thế, một hôm có một người xách cặp táp kiểu điệp viên 007 một cách rất thần bí, lên núi xin gặp và nói chuyện ‘riêng’ với ngài.  Vì trong quá khứ đã có người có ý muốn làm hại ngài cho nên các đệ tử không cho người này đơn độc gặp lão hòa thượng.  Người này đến kề vào tai lão hòa thượng và hỏi ngài một cách rất cung kính:
“Kính thưa lão hòa thượng, người ta đều nói ngài có thần thông, xin ngài nói thật với tôi ngài có thần thông hay không?”. 
Sau đó lão hòa thượng cũng thần bí kề vào tai người kia và nói: “Tôi nói với ông, tôi có ăn thì có thông, không ăn thì không thông!”. 
Sự kỳ diệu của Phật pháp là ở chỗ rất bình thường, không lôi cuốn sự hiếu kỳ của người ta bằng những thần thông hoặc những tướng trạng kỳ dị.  Người người đều có đầy đủ thần thông, chỉ vì bị tâm tham, sân, si, mạn, nghi, phiền não che lấp nên không thể hiện ra được; có thần thông mà không thể giải quyết vấn đề sanh tử thì cũng như không.  Hướng ngoại tìm cầu nhờ ‘những người có thần thông’ cứu giúp thì  là ‘bỏ gốc rễ (căn bản) mà tìm cành nhánh’.  Ngài nói: “Cầu người thì là mất đi đức Phật Thích Ca”.
Tôi cảm thấy ‘thần thông’ vĩ đại nhất rất đáng cho mọi người tán thán là công phu nhẫn nhục của ngài: ‘nhẫn chuyện người không nhẫn được, làm chuyện  người khác làm không được’.   Năm xưa khi ngài từ hang động trên núi về đến chùa Thừa Thiên ở Ðại lục, đầu tóc mọc ra quá dài làm cho ngài trông giống như một người rừng, không ai nhận biết đến khi giải thích rõ ràng thì mọi người mới nhận ra.  Về chùa qua một thời gian sau đó, vị sư ‘đương gia’ (thầy giám viện) và ‘điện chủ’ trong chùa muốn khảo nghiệm công phu tu hành của ngài nên cố ý đem tiền trong thùng phước sương dấu đi, rồi giả vờ nói nghi ngờ lão hòa thượng đã ăn cắp tiền này; từ đó mọi người đều cho là ngài đã ăn cắp, ai cũng đều nói nặng nói nhẹ lão hòa thượng.  Ngài nghe những lời nói này như gió mùa xuân thổi và như uống nước cam lồ, an nhiên tự tại, tâm lượng của ngài thật vô cùng rộng lớn, thật là một người tiêu diêu tự tại.  Cái ‘thần thông’ nhẫn nhục này so với những thứ ‘phóng quang, lên khói’ thì còn thần kỳ hơn nhiều; tại vì đốt giấy thì sẽ lên khói, đốt đèn thì sẽ phóng quang, nhưng chúng ta tự hỏi ai bị vu oan là người ăn trộm mà vẫn an nhiên tự tại như uống nước cam lồ và vẫn không giải thích biện bạch rằng mình không phải [người ăn trộm].  Ai có công phu tu hành đến mức nhìn thấu chuyện thế gian như bèo như bọt là người có đại trí huệ, xứng đáng được người khác cung kính.  Chúng ta thường biến thành vật mà lão hòa thượng hình dung là ‘thạch đầu cẩu’ (con chó chạy theo cục đá).   Người ta muốn chúng ta chạy thì rất dễ, chỉ cần liệng một cục đá thì mình liền chạy theo, đuổi theo đến khi mệt lả, đuối sức cũng chỉ vì đuổi theo một cục đá ăn không được!  Lão hòa thượng mở to đôi mắt nói: “Không có chủ trương (ý chí không cứng rắn nhất định) như vậy làm sao có thể đi về Tây phương được?”  Ngài làm chủ được mình, sanh tử tự tại, mọi người đều kính trọng.  Ngài không cầu danh văn lợi dưỡng và biểu hiện qua hành vi trong đời sống thường ngày, làm cho mọi người tâm phục khẩu phục.  Có lần nọ một ký giả nhà báo lên chùa uy hiếp, đòi tiền ngài và nói: “Ngòi bút của tôi rất lợi hại, nếu không đưa tiền cho tôi thì tôi sẽ viết xấu về ngài”.   Lão hòa thượng điềm nhiên và nói: “Cứ việc đăng lên báo, tùy ý viết như thế nào cũng được, tôi không cần người ta cung kính, nếu người ta cung kính tôi, mỗi ngày tôi phải niệm Chú Ðại Bi gia trì vào nước Ðại Bi cho họ; nếu người ta không cung kính tôi, tôi được rảnh rang thanh tịnh mà niệm A Di Ðà Phật”.  Người ký giả này cũng không làm gì được và cảm than rằng ngài không giống người phàm, đúng là: ‘Sự việc đến mức không tâm thì rất vui sướng, người có thể không mong cầu thì phẩm đức tự nhiên cao’.
Còn lần nọ, một số đệ tử theo ngài đi nghe giảng và biết vị pháp sư thuyết pháp có ý phê bình ngài trong buổi giảng nên nổi giận và về chùa thuật lại với ngài.  Không ngờ ngài nghe xong không những không nổi giận mà còn kêu nhóm đệ tử này phải sám hối với vị pháp sư đó, và còn giải thích rõ [dùm vị pháp sư] hàm ý của những ngôn từ đó.  Ngài nói với nhóm đệ tử nếu người ta lấy pháp danh của mình mà chửi mắng thì mình phải cám ơn người ta, huống chi là họ không có nói rõ tên mình ra!  Ngài còn nghiêm nghị mà giảng về đạo lý: “Nếu muốn Phật pháp hưng thịnh thì tăng phải khen ngợi tăng”.  Ngài khen ngợi vị pháp sư đó: “Trong thế giới trược ác này có thể độ chúng sanh, đúng là Bồ Tát”.  Và còn khiêm tốn nói: “Tôi không dám làm”.  Công phu của lão hòa thượng đạt đến mức chúng ta không thể suy đoán nổi, những việc xảy ra thường ngày đều nói lên tâm lượng rộng lớn của ngài. Mỗi câu chuyện đều làm cho tôi cảm động, ngài như ánh thái dương từ bi phổ chiếu từng ngọn cỏ từng gốc cây; tuy nhiên có khi cũng dùng cây kiếm trí huệ của ngài chém sạch cành lá của phiền não, chém sạch danh văn lợi dưỡng, giúp cho những mầm non đang lớn có thể hướng về Tây phương thanh tịnh.  Ngài thường đề ra những bài thi đột xuất, thường rất là sôi nổi và kích thích, tài nghệ ‘diễn kịch’ của ngài rất xuất sắc; những người bị khảo thí này thường bị cảnh giới chuyển dời, ngay khi đó không cảnh giác thì không biết, lâu dần thì hiểu được và mới biết dụng ý rất từ bi của lão hòa thượng.  Phương pháp và sự tập luyện của ngài có thể hình dung là: ‘Xay đến tróc vỏ, mài đến [gạo] trắng, nhồi đến nhuyễn, nung đến đổi màu’.  Cách này làm cho một người chân chánh phát tâm tu hành trở thành ‘một cái bánh thánh có thể cúng dường tất cả chúng sanh, cúng dường tất cả chư Phật’.   Quá trình này thường phải đòi hỏi rất nhiều nước mắt và mồ hôi.  Có lúc lão hòa thượng cũng rớt nước mắt, từ bi mà nói với đệ tử đang bị ngài khảo thí: “Thầy dạy như vậy con có hiểu rõ chưa?  Thầy sợ kết oán thù với con, vốn là muốn giúp con phá đi những thứ chấp trước này, nhưng nếu con không hiểu rõ được hết dụng ý, thì sẽ kết thành oán thù với các con.  Tạo cảnh nghịch ra là để tập luyện cho các con mà thôi!”.
Tổ sư nói ba món tư lương cần có để vãng sanh Tây Phương là ‘tín, nguyện, và hạnh’.  Nguyện là chán ghét muốn thoát ly cõi Sa Bà và ưa thích cõi Cực Lạc.   (Sa Bà là từ ‘tự tâm ác’ và ‘tâm uế’ (dơ) tạo ra, Cực Lạc là do ‘tự tâm thanh tịnh’ hiện ra).  Tuyết Công lão ân sư cũng nhấn mạnh cái tâm ‘hân’ (ưa thích) và tâm ‘yếm’ (chán ghét) là pháp môn ‘tổng an tâm Tịnh độ’.  Phàm phu chúng ta trong cảnh thuận rất khó phát ra tâm chán ghét Sa Bà, bất đắc dĩ nên lão hòa thượng cho đến chư Phật Bồ Tát đều ‘ban’ cho chúng ta những cảnh nghịch, để cho chúng ta ‘dùng khổ làm thầy’, dũng mãnh phát tâm chán ghét Sa Bà ưa thích Cực Lạc mà niệm Phật, liễu sanh thoát tử, dùng sự tinh tấn cần khổ trong đời này đổi lấy sự tự tại hạnh phúc vĩnh viễn; thật ra đây là ân huệ không có gì quý hơn mà các ngài ‘ban’ cho chúng ta.  Ngặt vì chúng ta ưa thích những ‘mìn nổ chậm được bao bọc đẹp đẽ bên ngoài’, theo đuổi sự khoái lạc và danh lợi nhất thời mà đánh mất sự an lạc vĩnh cửu.   Chư Phật Bồ Tát thường rơi lệ vì những sự tổn thất lớn lao của chúng ta. 
Có lần lão hòa thượng nghiêm nghị nói:
Trong thế giới Sa Bà này, chỉ cần tham ái một ngọn cỏ thì sẽ đi vào luân hồi trở lại
Cho nên mặc cho mọi người đối với ngài vô cùng cung kính cúng dường, ngài vẫn buông xả một cách rất là siêu thoát; ngôi chùa có một kiến trúc vô cùng hùng vĩ trên núi đối với ngài chỉ là ‘một công cụ dạy học nhất thời mà thôi’, ngài mượn những nhân duyên và cảnh giới này để giảng dạy cho những chúng sanh có duyên.  Những người buông xả hoàn toàn và thành thật niệm Phật vãng sanh mới là đệ tử chân chánh của ngài.   Không lâu trước khi vãng sanh, ngài cứ lập đi lập lại và nói:
Sự khổ nạn càng ngày càng nhiều, hãy tu mau lên, phải  tu mau mau; tu một phần được một phần công đức, tu một ngàn phần được một ngàn phần công đức, tu một vạn phần được một vạn phần công đức!”.  
Ngài rất nhẫn nại nhắc đi nhắc lại hoài, đây là sự khuyên nhủ vô cùng khẩn thiết; tin lời ngài nói thì hãy thật thà niệm Phật, một môn thâm nhập không nên đổi tới đổi lui hoài!
Có một vị đạo hữu kể lại khi ông đi thăm và hỏi lão hòa thượng:
“Phải niệm Phật cách nào?”. 
Ngài nghe xong liền hỏi lại: “Ông niệm như thế nào?”.  
Ông trả lời: “Khi tôi rảnh rang thì liền niệm Phật”. 
Lão hòa thượng đáp: “Ông ‘rảnh’ thì niệm, không rảnh thì không niệm, như vậy chắc ông có ‘quen biết lớn’ (điểm đầu chi giao) với Phật phải không?  Niệm như vậy thì làm sao kỳ vọng Phật đến cứu ông trong giờ phút sanh tử.   Lại đây, mọi người đưa chân ra, chân nào là chân Phật?  Nhận ra chân của Phật không?  Nếu muốn ôm chân Phật, chân Phật là chân nào cũng không nhận ra, thì làm sao ôm được.  Ông đích thật là có nhận biết được Phật không?” (ôm chân Phật nghĩa là cầu cứu đức Phật). 
Ngài nói như vậy là để thức tỉnh người ta.  Vị đạo hữu này kể tiếp, ngài hớp một ngụm trà rồi ngước đầu lên hỏi: “Ông thấy tôi có ‘xướng’ ra tiếng không?”.  Ông đáp: “Không có”.  Ngài hỏi: “Tôi niệm Phật ông biết không?”  Lão hòa thượng dạy một cách rất sống động và biểu diễn niệm Phật trong khi uống trà, ăn cơm, đi, đứng, nằm, ngồi, tất cả mọi thời đều phải niệm Phật.  Nửa đêm không vặn đèn khi nghe hai tiếng ho ‘ách xì’ thì bạn biết là cha bạn đã về.  Như vậy lúc nửa đêm nếu đức Phật A Di Ðà đến thì bạn biết là Phật đến hay không?  Chúng ta hãy thử hỏi mình đã niệm đến mức nhận biết Phật và cùng Phật rất quen thuộc hay không?  Lão hòa thượng đã niệm đến mức đó rồi.  Có một lần ngài nói với một vị bác sĩ đến thăm: “Tiếng chim hót, xe chạy, âm thanh tạp loạn đều là tiếng niệm Phật”.  Ông này hỏi ngài có thể niệm như vậy được bao lâu, ngài đáp: ‘trú dạ lục thời’ (nghĩa là 24 giờ mỗi ngày, bất kỳ lúc nào cũng niệm như vậy). 
Mười năm trước lão hòa thượng đã nói với đệ tử của ngài: “Tương lai lúc tôi vãng sanh sẽ hiện ra tướng có bịnh” và còn nói ba người trong nhóm đệ tử của ngài sẽ không tiễn ngài ra đi (hiện diện lúc ngài ra đi).  Ba người đệ tử này đều không tin, tại vì [họ nghĩ] một trong ba người thế nào cũng có một người luôn ở bên cạnh ngài.  Làm sao có thể nói là họ không thể ‘tiễn ngài ra đi’ được.  Quả nhiên không sai, lúc ngài ra đi vì một lý do đặc biệt gì đó cả ba người tạm thời đi khỏi thì ngài thiệt đã vãng sanh rồi.
Trước lúc ra đi ngài khuyến khích đại chúng:
Thế giới Sa Bà rất khổ!  Ðại chúng mau mau niệm Phật để đi về tây phương Cực Lạc thế giới”. 
Cuối cùng ngài nói: “Không đến, không đi, không có chuyện gì!” rồi an nhiên niệm Phật và vãng sanh.  Thật là đẹp, thật là siêu phàm! 
Chúng ta thì ngược lại: “Ðến đến, đi đi, quá nhiều chuyện!”, không có ngày nào, không có giờ phút nào mà không có chuyện để lo lắng và bận tâm đến.  Chữ ‘sự tình’ (chuyện xấu ) trong tiếng địa phương ở Ðài Loan hàm ý không kiết tường, đúng như người ta thường nói:
Bất thị nhàn nhân nhàn bất đắc, nhàn nhân bất thị đẳng nhàn nhân’
(Nếu không phải người nhàn hạ thì nhàn không được, người nhàn hạ không phải là người tầm thường). 
Trong tâm chúng ta nếu thiệt là không có ‘chuyện gì’ hết, thiệt là ‘nhàn hạ’ thì phải cần công phu tập luyện chứ không phải dễ!
Khoảng một tuần trước lúc ngài vãng sanh, cả ngày lẫn đêm ngài đều to tiếng niệm Phật, cách niệm của ngài là ‘dùng hết sức mình rất thành khẩn mà niệm A Di Ðà Phật’, không phải người nào cũng có thể niệm như vậy được.  Ðại chúng luân phiên nhau niệm lớn tiếng theo ngài mà còn khan tiếng, đau ngực, chịu không nổi huống chi ngài đã 95 tuổi ! Ða số người ta lúc gần ra đi thì hô hấp rất yếu ớt, không thể làm chủ được, còn ngài thì mạnh như ‘tướng quân đột phá vòng vây thoát ra khỏi ngũ trược ác thế’.  Mấy người đệ tử sợ ngài yếu sức chịu không nổi vì cả tháng ngài đã không ăn gì hết nên nói:
“Ðể chúng con niệm, xin sư phụ đừng niệm, chỉ nghe theo mà thôi!”. 
Ngài mở to mắt ra nói một cách rất dứt khoát: “Mỗi người niệm theo mỗi người, sanh tử của ai thì tự người đó đoạn dứt.” 
Nói xong liền lớn tiếng và thành khẩn mà niệm tiếp.  Vào ngày thứ sáu trong tuần đó, đột nhiên ngài ‘biểu diễn’ một màn kịch, tôi nghĩ thật là đáng để mọi người chiêm nghiệm. Hôm đó đột nhiên ngài không khuyên mọi người niệm A Di Ðà Phật như lúc trước mà lại ra lịnh cho đại chúng mau đem Ðại Tạng Kinh ra tụng.  Ðại Tạng Kinh quá dài ai cũng không biết bắt đầu từ đâu mà tụng nên hỏi lão hòa thượng phải tụng quyển nào? 
Ngài đáp: “Tổng tụng” (tụng hết). 
Ðại chúng mới đem từ quyển Ðại Tạng Kinh ra, nội việc khiêng ra cũng mệt đứt hơi, nhìn thấy ngài có vẻ rất quyết tâm vãng sanh, mọi người vừa mệt, vừa gấp, mà vừa buồn. Ngài nói: “Ðể coi quý vị biết quyển kinh nào, tất cả đều tụng cho tôi nghe!”  Vì thế cho nên đại chúng mới tụng từng bộ từng bộ: Tâm kinh, kinh Kim Cang, kinh Dược Sư, kinh Ðịa Tạng, …  Lúc ở trong cửa ngõ sanh tử khẩn yếu này mới biết nội hai trăm mấy chữ trong Tâm kinh cũng tụng không mạch lạc; có thể nói là miệng họ tụng nhưng tâm họ lại lo ra.  Lúc mọi người tụng kinh như vậy, ngài lại cười chúm chím mà tiếp tục niệm: “Nam mô A Di Ðà Phật, Nam mô A Di Ðà Phật, ….”  một tí gì cũng không bị ảnh hưởng bởi âm thanh đại chúng đang tụng kinh.   Nụ cười này của ngài thiệt là một cây gậy thật to đập vào đầu của mọi người! Thử hỏi trong màn biểu diễn bất ngờ này có ai đã ‘tổng tụng’ Ðại Tạng kinh không?  Duy chỉ có lão hòa thượng niệm niệm phân minh, rõ ràng, niệm niệm rất khẩn thiết mạnh mẽ niệm A Di Ðà Phật, đây mới là ‘tổng tụng’ Ðại Tạng kinh!
Chúng ta xin đừng nghi hoặc tại sao lão hòa thượng lại thay đổi tiết mục bất ngờ như vậy.  Ngài thường dùng phương pháp ‘phản diện’ rất khéo léo để làm cho mọi người tỉnh giác và còn làm cho mọi người ghi nhớ vào xương vào tuỷ; ý nghĩa rốt ráo của sự tu hành là phải ‘thực hành’,  không phải chỉ nghe rồi bỏ qua; trong trường Y khoa bàn luận chuyện chữa bịnh trên sách vở hiển nhiên rất khác với chuyện gặp lúc bệnh nhân máu chảy đầm đìa!  Có lẽ các bạn sẽ nghĩ sự thị hiện của lão hòa thượng rất giống cách nói của Tuyết Công lão ân sư:
Sáu chữ hồng danh bao gồm hết tinh hoa của tất cả vạn pháp’. 
Phần đông người ta khi lâm chung rất khổ sở, chỉ bốn chữ ‘A Di Ðà Phật’ cũng niệm không được, huống gì là tụng kinh mà còn tụng Ðại Tạng kinh nữa!  Chúng ta hãy nghe theo lời dạy bảo và hãy ‘lão thật niệm Phật, đừng thay đổi đề mục’ nữa.  Ðừng lâm vào tình trạng ‘luyện hết mười tám thứ võ nghệ, đến lúc khổ đau quá không biết phải dùng thứ nào’.  Mỗi ngày thay đổi đề mục hình như có vẻ học rộng biết nhiều và hình như cũng kết rất nhiều duyên với Phật và Bồ Tát.  Ðến lúc cần thiết thì tâm rối nùi như tơ, không biết phải niệm vị nào mới được.  Thiệt ra trong kinh A Di Ðà có nói: ‘Sáu phương Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài tán thán A Di Ðà Phật, khuyên chúng sanh tín thọ cầu sanh Tây phương’.   Ðây là nói rõ chúng ta niệm Phật A Di Ðà thì tất cả chư Phật đều vui vẻ tán thán, đây chính là ‘tổng tụng’ vậy!
Hai ngày trước lúc vãng sanh, lão hòa thượng đích thân gõ mõ và kêu đệ tử niệm Phật, trong đó có nhiều chuyện rất thú vị.  Ngài đem câu ‘Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới’ niệm ráp vào danh hiệu của các vị Phật và Bồ Tát.  Thí dụ như Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Phổ Hiền Bồ Tát , Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Di Lặc Bồ Tát ….Tôi hiểu ý của ngài là ‘có thể gặp tất cả những vị Bồ Tát này ở thế giới Cực Lạc’, chỉ cần chuyên niệm A Di Ðà Phật cầu sanh tây phương thì có thể sánh bước cùng họ khi đến tây phương!  
Một hôm tôi cùng một bác sĩ lên núi để thỉnh giáo ngài.  Ông bác sĩ này hỏi: “Làm thế nào tĩnh tọa mới có thể đả thông huyết mạch?”.   Ngài đáp: “Không cần phải đả thông huyết mạch, nhất tâm niệm Phật chứng đến Niệm Phật Tam Muội thì tất cả huyết mạch tự nhiên đều thông!”; đây là lời dạy của người đã giác ngộ và đã được đại tự tại; chúng ta hiểu được thì không cần phải phí sức tốn công đi tìm kiếm vô ích.  Mau sớm chuẩn bị tư lương như ngài đã nói:
“Tôi đã mua vé xe rồi! Đã xác nhận ghế ngồi rồi! 
Quý vị có phải đã mua vé rồi hay chưa? 
Ðã xác nhận ghế rồi chưa? 
Hay là không cần xác nhận chỗ ngồi? 
Hay là không chịu lên xe? ”
Phải nên mua vé sớm thì hơn, đừng làm giống tôi sau khi ngài vãng sanh lên núi niệm Phật, niệm hết mấy giờ đồng hồ, nước mắt cứ chảy hoài, không thể nào niệm Phật được đàng hoàng để cúng dường lão hòa thượng; cúi đầu không dám ngước lên, tại vì không làm theo đúng lời dạy và lời dặn dò của ngài, xấu hổ và sám hối đều đau khổ; xin nguyện cho các bạn đều sớm mua vé thượng hạng ở toa thứ nhất, lên đài sen vàng ở thượng phẩm thượng sanh!
Tiếp theo đây chúng ta hãy xem Tuyết Công lão ân sư (lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam) là một vị đại đức đương thời, 97 tuổi mới vãng sanh.  Ở đây tại sao phải nhắc đến tuổi lúc ngài vãng sanh?  Vì đoạn trước có nói những người mắc bịnh mới ba mươi mấy tuổi đã chết, người nhà còn than là mạng sống (đau khổ) kéo quá dài.  Nhưng như lão hòa thượng 95 tuổi, và thầy Lý 97 tuổi vãng sanh, mọi người đều than là quá ngắn, ai cũng khóc lóc đòi các ngài ở lại trụ thế mãi mãi để phổ độ chúng sanh.  Tôi đi nghe kinh cũng là vì cảm kích thầy Lý. Mười năm trước tôi có cơ hội đến nghe thầy giảng kinh Hoa Nghiêm ở Thư viện Từ Quang, Ðài Trung.  Vì thầy có giọng nói của người miền Sơn Ðông (rất khó nghe) tuy là có phiên dịch qua tiếng Ðài Loan, nhưng tiếng Ðài Loan (tiếng Phước Kiến) tôi cũng không thạo, chủ yếu là vì trình độ quá kém nên nghe cũng không hiểu và cảm thấy thời gian kéo quá dài và không thích thú.  Thấy mọi người chung quanh nghe kinh và thường cười rộ lên mà mình không biết gì hết.  Lâu lâu chỉ nghe được một câu có cảm giác quen quen hình như đã nghe ở đâu rồi nhưng cũng không hiểu.  Mấy hôm trước nửa đêm nằm mộng thấy trăng sáng trên núi, tự nhiên nhớ lại lời giảng của thầy mười năm trước.  Lúc đó thầy giảng kinh Hoa Nghiêm đến đoạn ‘Vô tận tạng’, thầy có nhắc đến mấy câu trong bài Xích Bích Phú của Tô Ðông Pha:                                
‘Duy giang thượng chi thanh phong      
Dữ sơn gian chi minh nguyệt,              
Nhĩ đắc chi nhi vi thanh,                     
Mục ngộ chi nhi thành sắc...                
Thị tạo vật giả chi vô tận tạng dã’        
Có một người [không rõ tên] đã dịch như vầy:
“Bui gió mát trên sông dài,
Trăng sáng chiếu non thẳm,
Tiếng thoảng qua tai,
Cảnh in vào mắt …
Kìa kho vô tận của hóa công!”
Thầy giải thích chữ ‘vô tận tạng’ trong bài thơ này là lấy từ kinh Phật.  Nửa đêm nằm mơ nhớ lại chuyện này rồi bị điện thoại reo giựt mình, tỉnh dậy không thấy rừng núi trăng sáng gì cả, chỉ thấy bịnh nhân khó chịu nên mấy cô y tá kêu đi khám bịnh.  Sau cơn mộng này mới càng hối hận, lúc đó tôi đi nghe kinh không hiểu nên cứ nghĩ là thầy giảng không hay; thật ra là vì trình độ của mình quá kém (thiệt ra là không có trình độ gì cả!), cho nên mới chê là thầy giảng không hay và không tiếp tục nghe cả mười năm rồi, xém chút xíu thì làm hỏng pháp thân huệ mạng của mình!  Cách một thời gian sau đó thầy không ra giảng kinh; khi tôi tham gia Trai Giới Học Hội chịu ảnh hưởng rất lớn của Pháp sư Sám Vân nên có thể nói Trai Giới Học Hội đã chuyển biến cả đời tôi.  Trong thời công phu tối pháp sư đọc bài hồi hướng cho lão hòa thượng Quảng Khâm và lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam làm cho tôi có ấn tượng rất sâu đậm, nên một hôm có cơ duyên đặc biệt tôi liền theo mấy vị liên hữu đi nghe giảng kinh.  Hôm đó chân thầy Lý sưng lên đến nỗi đi đứng không vững nên người ta phải dùng kiệu để khiêng thầy lên bục giảng.  Phật pháp thiệt quá quan trọng và người hoằng pháp thiệt là vĩ đại, chân sưng lên đi không được mà vẫn tiếp tục giảng kinh thuyết pháp.  Buổi giảng hôm đó tôi khóc từ đầu đến cuối; bài giảng ghi lại nghuệch ngoạc, nét chữ xem không rõ, đến nay cũng không nhớ nội dung là giảng về đề tài gì, nhưng lòng từ bi vô lượng của thầy Lý đã làm chấn động tâm tôi một cách mãnh liệt, tôi cảm động tinh thần ‘vì pháp quên mình’ của thầy, nếu không có lòng nhiệt thành hoằng pháp của thầy thì không có cách nào cứu nổi cái tâm ngoan cố ngu si của tôi, kể từ đó tôi dọn nhà về Ðài Trung để nghe giảng cho thuận tiện.
Mỗi đầu tháng khi bịnh viện sắp xếp thời khoá biểu làm việc tôi luôn luôn yêu cầu sắp xếp tránh thời gian đi nghe giảng; tôi thà chịu liên tục làm suốt mấy ngày liền và thà chịu mệt chứ không chịu bỏ qua những buổi giảng của thầy.  Tại vì ‘Thân người khó được, đây là một nhân duyên rất hiếm có; Phật pháp khó nghe được, cơ hội rất khó gặp trong lũy kiếp; nếu lỡ bỏ qua, thiệt không ai có thể bù đắp sự tổn thất này!”
 Mỗi ngày bịnh nhân của tôi đều than thở khóc lóc để nhắc tôi tầm mức quan trọng của chuyện này; không phải không có người khuyên tôi: “Cô nên ăn uống có dinh dưỡng một chút, uốn tóc đẹp một chút, mặc áo đẹp một chút”;  nhưng tôi thể hội được một cách rất sâu sắc rằng trong giờ phút khẩn cấp của sự sanh tử trong đời người, những thứ này đều không cần thiết tí nào!  Phải nên thấy rõ, hiểu thấu, nghe kinh, thực hành theo để chuyển hóa đời sống thì có ích lợi hơn.  Cho nên mặc dù giọng nói miền Sơn Ðông của thầy rất khó nghe, nhưng nghe hiểu được câu nào thì trân quý câu đó, thật là cơ hội hiếm hoi ngàn đời khó gặp!  Huống chi là lời phiên dịch qua tiếng thổ ngữ Ðài Loan của bác Giản rất rõ ràng và lưu loát, giúp đỡ rất nhiều; nếu còn chỗ nào không hiểu thì tôi đến Ðài Trung để cung kính nghe những vị trưởng thượng trong Liên Xã giảng lại.  Khi nghe lại mới biết là các đạo hữu rất chăm học, tư duy thâm nhập [giáo lý] mà lại còn nỗ lực đi thực hành, ai cũng cảm nhận sự giáo huấn và đức hạnh của thầy chiêu cảm.  Vào mỗi ngày thứ tư rất nhiều người từ khắp nơi như Ðài Bắc, Ðài Nam, và Cao Hùng lũ lượt về đến Ðài Trung để nghe giảng, cả một giải liễu châu, lục châu, tôi gặp rất nhiều người tay cầm xâu chuỗi, mặc áo đà, thật là một cảnh tượng rất ôn nhu, đẹp đẽ, thanh lương trong thế giới Ta Bà …  Tôi còn nhớ rõ ràng buổi giảng cuối cùng của thầy, thầy dùng tấm lòng bi nguyện rộng lớn, từ câu, từ câu khuyến khích mọi người phải luôn ‘tịnh niệm tiếp nối’; đây là lời trong Chương Ðại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông; nhiều người cảm động quá không cầm được nước mắt.
Thầy rán hết sức trong mấy hơi cuối cùng để khuyên mọi người:
‘tịnh niệm tiếp nối’ là điều quan trọng trong sự tu niệm;
  Chúng ta có thiết thật làm được chuyện này hay chưa?  Trong kinh Phật thường bắt đầu bằng câu: “Tôi nghe như thế này”.  Trên bề ngoài chúng ta đều có ‘nhĩ văn’ (tai nghe) nhưng câu cuối cùng “hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ” (vui vẻ tin nhận, lễ lạy rồi lui ra) thì có mấy người làm được?  Y theo lời của Ngẫu Ích tổ sư, thân tâm vui mừng thì gọi là ‘hoan hỷ’, không có nghi ngờ gì hết thì gọi là ‘tín’, nhận chịu không quên thì gọi là ‘thọ’; cảm đại ân đức quy mạng lạy xuống thì gọi là ‘tác lễ’; y theo lời dạy mà tu trì không lùi bước thì gọi là ‘nhi khứ’.  Chúng ta có thiệt là ‘y giáo tu trì, nhất vãng bất thoái’ không?  Nghĩ đến đây thì rất xấu hổ, mọi người thử xem thì biết, tôi tự biết vọng tưởng của mình có sức mạnh giống như thạch nham từ trong núi lửa trào ra, còn tịnh niệm thì yếu ớt như xách một thùng nước nhỏ mà đi chữa lửa.  Muốn thay đổi thế lực của hai thứ này (vọng niệm và tịnh niệm) thì phải ra sức khổ công; nếu không như vậy thì lúc thân thể khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, tự mình còn không làm chủ mình được, tự mình còn không biết tâm niệm kế tiếp là tâm niệm gì thì lúc lâm chung còn tệ hại hơn nữa!
          Thầy dạy chúng ta: “Niệm Phật không nên cầu niệm nhiều, niệm một trăm lẻ tám hột chuỗi tâm không loạn, trong đó nếu có một niệm loạn, quay xâu chuỗi niệm từ đầu trở lại”.  Tôi luyện tập qua một thời gian, chỉ có ba hột đầu tiên trong xâu chuỗi là có màu đen thôi!  Không biết trong ba niệm này có xen tạp không nữa; khi niệm một vạn, hai vạn, cho đến có lúc niệm sáu vạn, bảy vạn danh hiệu thì cũng rất khó tìm ra được ‘trăm lẻ tám tịnh niệm tiếp nối’.  Cái tâm này thiệt loạn đến mức quá nguy hiểm rồi, nguy hiểm nhưng tự mình không biết, làm sao không sớm nỗ lực gia công thêm được!  Chúng ta hãy nhìn thầy một lần nữa và đem lời dạy này nhớ kỹ trong lòng.  Ánh mắt kiên nghị của thầy, ánh mắt nhìn về Tây phương thanh tịnh, nhìn về hư không vô tận, và cũng nhìn chúng sanh khổ nạn vô biên.  Thầy dạy chúng ta:
Tận hư không biến khắp pháp giới đều là thân của đức Phật A Di Ðà.  Chúng ta nằm trong lòng của đức Phật A Di Ðà cho nên Phật lại tiếp dẫn chúng ta rất dễ dàng.  Ðiều này cũng như cái bàn ở trước mặt chúng ta, có con kiến đi từ bên đây qua đến bên kia bàn, nếu bò theo đường thẳng thì cũng phải bò hết một thời gian rất dài.  Cũng như Phật A Di Ðà, chúng ta  có thể đem con kiến từ bên này qua đến bên kia, cũng có thể đem ngược lại; chúng ta  đi và lại đã nhiều lần rồi mà con kiến cũng chưa đi đến bờ bên kia.  Chúng ta niệm Phật khi đến mức có cảm ứng, đức Phật đến tiếp dẫn thì cũng như vậy.   Làm sao mới cùng đức Phật A Di Ðà có cảm ứng?  Phải đem ngũ dục lục trần buông xuống; phàm những ai niệm Phật không có cảm ứng đều tại vì các thứ này trói buộc.” 
Nguyện cho chúng ta có thể thật thà làm theo lời dạy của ngài trong đời sống, có thể làm giống như thầy, có thể dự biết trước ngày giờ vãng sanh, quảng độ chúng sanh, viên mãn bồ đề nguyện.
          Có thể có người sẽ nói: rất khó có cơ hội gặp được những người giống như lão hòa thượng Quảng Khâm hoặc là lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam.  Phàm phu như chúng ta phải làm sao? Xin quý vị xem xá lợi của lão cư sĩ Lại Tạ Diệu ở Viên Lâm, có năm màu trong suốt lấp lánh giống như lưu ly, mã não, ngọc đẹp…  Bác Diệu từ khi tin Phật đến nay rất siêng năng, mỗi ngày thức dậy đều mặc áo hải thanh (áo tràng), mở cửa nghinh đón chư Phật Bồ Tát , ngày ngày thật thà niệm Phật, làm người rất từ bi, ít nói, bà cũng đã niệm đến lúc dự biết trước ngày giờ vãng sanh.  Bà nhờ liên hữu trợ niệm giúp, liên hữu nói mùa hè trợ niệm rất là khó chịu.  Bà nói:
“Không sao đâu, tôi sẽ lựa một ngày mát mẻ mà vãng sanh!”.  
Quý vị xem bà có thể lựa chọn ngày mát mẻ để vãng sanh, thiệt là thong dong tự tại biết bao. Ðến lúc cuối, mọi người trợ niệm giúp bà, bà không thể niệm ra tiếng, nhưng tay có thể gõ vào giường để hòa vào tiếng niệm Phật của mọi người, chánh niệm phân minh mà về Tây.  Hỏa táng xong có rất nhiều xá lợi năm màu đẹp như vậy, làm tăng thêm lòng tin cho những người đi sau!  Thường ngày bà sinh sống rất đạm bạc, không cần mua châu báu mà dùng lòng tin tha thiết và từng tiếng A Di Ðà Phật tích tụ lại những châu báu trang nghiêm tự mình sẵn có.  Vì mỗi khi chúng ta niệm một câu A Di Ðà Phật thì liền đem vô lượng công đức của Phật gom về làm công đức của mình.  Tín nguyện trì danh, trì một câu, một câu không thể nghĩ bàn, trì trăm câu, ngàn câu, vạn câu danh hiệu, câu nào cũng không thể nghĩ bàn!   Người xưa có câu: ‘Thuấn hà nhân dã, Vũ hà nhân dã, hữu vi giả diệc nhược thị’ (Thuấn là người nào, Vũ là người nào, họ làm được mình cũng làm được!  Ðại ý: Vua Nghiêu Thuấn, Vua Đại Vũ là những ông vua nổi tiếng nhân từ hiếu thảo, tôi cũng là một người, nếu tôi rán hết sức thì có thể làm giống vua Thuấn, vua Vũ).  Một bà lão có thể làm được như vậy, chúng ta tại sao không thể nhìn mà bắt chước theo?  Thiệt ra chúng ta có chỗ nào là thông minh hơn [hay thua] bà lão này không?  Ðạo lý của pháp môn Tịnh độ vô cùng thâm diệu, muốn chân chánh đảm đương triệt để thì chỉ có các vị tổ sư như Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, và Vĩnh Minh; nếu chúng ta dùng vọng tưởng để đo lường thì càng suy nghĩ càng sai lầm, ngược lại không bằng bà lão thật thà niệm Phật và có thể từ từ thâm nhập vào Phật trí, âm thầm phù hợp với đạo lý thâm diệu!
Có thể sẽ có người hỏi: niệm danh hiệu A Di Ðà Phật có hiệu lực lớn như vậy sao?  Ðúng vậy.  Hãy khoan nói công đức vô lượng của danh hiệu đức Phật, trước hết hãy dùng một tên thông thường làm thí dụ: thí dụ như tên ‘quýt’ (hay cam).  Có một bác nông phu muốn trồng quýt để đến mùa thu [đem ra chợ bán và] có người sẽ thưởng thức được mùi vị ngọt ngào giải khát của quýt.  Từ khi gieo hạt giống, vun bới, bón phân, tốn rất nhiều công sức, cây quýt này trải qua những trận mưa mùa xuân và ánh nắng gay gắt mùa hè, trải qua những cơn bão tố, từ đất đen nở ra cây trái vàng óng ánh, toả ra hương thơm ngát, trải qua thời gian rất dài và tốn nhiều công sức, thật không phải dễ.  Cây quýt có sự liên quan vô cùng mật thiết với cả thế giới này, rễ quýt bám sâu vào lòng đất, cây quýt hít thở bầu không khí rộng lớn và hòa vào không khí mà chúng ta hít thở hàng ngày, và cùng thọ nhận nguồn ánh sáng mặt trời vô tư.  Anh nông phu cần phải dựa vào sức lao lực và hoa trái của những người khác để duy trì đời sống; anh phải mặc áo và khi bị bịnh phải đi khám bác sĩ.  Cây quýt này có một lai lịch thật là phức tạp nhưng khi người mẹ hỏi con: “Con muốn ăn gì?”  Bạn chỉ trả lời: “quýt” thì liền ăn được trái quýt vô cùng ngọt ngào này, hưởng thụ được thành quả mà người nông phu phải ra sức vun bồi mới có được. 
Không phải vậy sao?  Trái quýt bình thường đã vậy, huống chi là câu vạn đức hồng danh ‘A Di Ðà Phật’.  Quá trình thành Phật đòi hỏi bao nhiêu sự khó khăn gian khổ, đòi hỏi bi nguyện rộng lớn chấn động đến trời đất, thêm vào sức nhẫn nại nỗ lực qua nhiều kiếp mới thành tựu được Phật quả không thể nghĩ bàn.   Niệm danh hiệu thì cũng như nếm trái quýt; hưởng thụ được những mùi thơm ngọt của nó; trong danh hiệu ‘A Di Ðà Phật’ này, đức Phật ban cho chúng ta hạnh phúc vô lượng vô biên, ban cho chúng ta thành quả gặt hái được từ tất cả công phu tu hành của ngài.  Có người hấp tấp nuốt liền và cũng có người từ từ thưởng thức hương vị; mỗi người nếm được mùi vị khác nhau, nhưng ai cũng được đã khát.  Danh hiệu ‘A Di Ðà Phật’ chứa đựng tất cả sự trang nghiêm, tốt đẹp, tự tại, thong dong của Cực Lạc thế giới;  tất cả đều có sẵn nhưng chỉ có người có tín nguyện thành khẩn mới có thể tiếp nhận được.  Giả sử bạn nhất định không chịu tin rằng ‘nói ‘quýt’ thì má bạn sẽ cho bạn ăn trái quýt’, mà nhất định phải tự mình đi gieo hột giống để trồng cây quýt. Như vậy thì cũng được nhưng sợ cây quýt chưa lớn thì bạn đã khát quá và chết đi rồi, hoặc là bị rắn trong vườn cắn bị thương.   Giống như tôi không biết trồng cây, mạng sống lại rất ngắn ngủi thì thích nói chữ ‘quýt’ để má cho ăn và liền có thể nếm được mùi vị ngon ngọt của trái quýt, liền hấp thụ được mùi vị ngọt ngào dinh dưỡng của trái quýt, và cũng cám ơn sự cần khổ của anh nông phu, tin tưởng vào nguyện và hành của anh nông phu đã thành tựu, tin vào lời má nói, rất đơn giản và dễ dàng.  Ăn xong trái quýt thì có sức lực để đi khám bịnh, phục vụ xã hội, như vậy thì quá tốt!  Giả sử tin không được nên phải từ sáng bận rộn cho đến tối làm việc [trồng trọt] để kiếm ăn, đây là cả một vấn đề khó khăn. 
Chúng ta ở trong đời trược ác này lâu quá  nên rất khó có thể tin những chuyện tốt hoặc tin chân lý.  Nếu có người nói với chúng ta bên đường phía đông có một băng đảng tên là Kim Quang, họ chuyên môn lập kế để gạt tiền người khác.  Chúng ta sẽ tin liền, sợ họ và không dám đi về phía đông.  Nhưng nếu nói với chúng ta Tây phương thế giới có đức Phật A Di Ðà, Quan Thế Âm Bồ Tát, và Ðại Thế Chí Bồ Tát thường phóng hào quang và từ bi đi cứu giúp chúng sanh, giúp cho họ thoát ly khổ nạn, và hưởng an lạc vĩnh viễn.   Chúng ta ngược lại sẽ hoài nghi cho đến chết cũng không tin.  Tại sao đều là nhìn không thấy mà chúng ta lại tin là có băng đảng Kim Quang và sợ không dám đi về phía đông.   Chúng ta tại sao không tin Phật Bồ Tát từ bi và có vô lượng hào quang trí huệ, không hoan hỷ tin tưởng để có thể đi về phương tây?  Tâm của chúng ta trầm luân đến nỗi chỉ tin ác chứ không tin thiện, chỉ tin giả chứ không tin thật?  Tôi cũng tin người trong băng đảng Kim Quang cũng có Phật tánh, nếu chuyển ý niệm và niệm A Di Ðà Phật thì cũng sẽ thành Phật.  Ðức Phật A Di Ðà từ bi sẽ không bao giờ bỏ rơi họ.  Tôi cũng tin Kim Quang đảng trong nội tâm của tôi: tham, sân, si có một ngày nào đó cũng sẽ phóng hào quang như đức Phật A Di Ðà.
Tôi xin giới thiệu thêm chuyện của bác Phan Tạ Ánh Mai.  Vốn là một đêm trước tết khi tôi mở cửa phòng khám bịnh chuẩn bị đi về thì nhìn thấy một người trẻ tuổi nói là họ từ Mỹ về thăm bà má vợ (chồng) bị đụng xe.  Bà này đã dặn dò chuyện ra đi của bà từ một năm trước, bà dặn khi bà qua đời thì kêu họ mời ngài Sám Công và các vị bạn sen trong liên xã trợ niệm cho bà.  Tại vì họ kêu điện thoại đến chùa Liên Nhân không gặp thầy và có người kêu họ lại kiếm tôi để nhờ giúp đỡ.   Tôi nghe nói bà đã thọ giới Bồ Tát, rất siêng năng niệm Phật, và đã dặn dò con cái không được di động thân thể của bà sau khi bà lâm chung, không cho con cái khóc lóc, và phải niệm Phật trợ giúp bà.  Tôi nghĩ: “Bà siêng năng tu hành như vậy mà còn gặp phải tai nạn đụng xe, huống chi là người như tôi” nên mau mau đi trợ niệm giúp bà, phải làm cho bà được mãn nguyện, giúp bà vãng sanh.  Khi tôi đến bịnh viện thì gặp con bà đang nói chuyện điện thoại bàn bạc về hậu sự.  Tôi cảm nhận được sự khổ của tất cả chúng sanh đang trôi lăn trong vòng sanh, lão, bịnh, tử.  Bà nằm trong phòng cấp cứu hôn mê đã mấy ngày không tỉnh.  Nhưng đến khi niệm Phật cho bà thì bà chảy nước mắt.  Ðêm đó các bạn ở liên xã chưa ăn cơm xong vừa nghe liền nhiệt tâm đến giúp chồng bà chuẩn bị và giải thích rõ về việc trợ niệm.  Con bà rất hiếu thảo, muốn làm cho bà được mãn nguyện và vãng sanh tây phương; họ đem các hình gia đình họ hàng đang treo trên tường đem cất để cho bà khỏi động tâm lưu luyến thế giới Sa bà này.  Bà ra đi ngay đêm giao thừa; có ba bốn mươi người bạn trong liên xã đến để trợ niệm mà trước đó không có người nào quen biết bà.  Tôi rất xúc động khi thấy tờ giấy viết bài phát nguyện (bài kệ phát nguyện trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện) đã nhuốm vàng bởi khói nhang.  Con bà nói trước đó bà thường đi trợ niệm và có viết sẵn tên của những người quen có thể đến trợ niệm cho bà.  Nhưng gặp ngay đêm giao thừa có một số đi về quê, một số khác thì bận việc nên không đến được.  Con bà rất lo không có ai đến, nhưng không ngờ lại có nhiều người không quen biết nhiệt tâm đến để trợ niệm cho bà.  Thiệt là nhân quả không sai, người niệm Phật chỉ cần tu nhân, ‘nhân’ đúng thì ‘quả’ chắc chắn sẽ đúng.
Người Á đông vốn rất kỵ chuyện tang lễ vào dịp tết, nhất là vào đêm giao thừa, nhưng Phật tử thì không màng đến chuyện này, chúng ta chỉ hy vọng có thêm một người vãng sanh thành Phật thì có thể độ được vô lượng chúng sanh; chúng ta chỉ sợ người trong gia đình trong lúc buồn rầu làm cho họ mất đi ‘tín’ và ‘nguyện’.  Sau khi hỏa táng bà để lại vài viên xá lợi màu xanh, vàng, và trắng.   Chồng bà rất cảm động; trước đó ông thường phàn nàn: “Tôi nghèo như vầy cũng vì bà bố thí hết trơn và không nấu thịt cá cho tôi ăn!”  (từ điểm này có thể biết được bà là người như thế nào).  Ông nói tiếp: “Mỗi khi tôi ngồi coi truyền hình, bà đều ngồi xếp bằng, dùng gốc cây nhang để tính số niệm Phật; nhiều lúc tôi trách bà nhưng không ngờ là bà đã tu thành công!”.  Tôi cảm thấy một việc rất không thể nghĩ bàn là xâu chuỗi của bà làm bằng hột ‘Tinh Nguyệt Bồ Ðề’, sau khi hỏa thiêu xong còn lại hai hột y nguyên không bị cháy hết.  Con trai, con gái, và con rể bà đều là tiến sĩ ở Mỹ, đối với việc này cũng nói là không thể tưởng tượng nổi.  Thật thà niệm Phật, công phu đắc lực thì sẽ thành công; nhân quả tơ hào chẳng sai.  
Hồi xưa có một đệ tử hỏi Phật: “Nếu gặp chuyện bất trắc mà chết đi bất ngờ thì có thể vãng sanh được không?”   Phật thí dụ: “Nếu có một cây mọc nghiêng về phía đông, nếu bị gẫy thì cũng sẽ ngã về hướng đông”.   Chúng ta niệm Phật cũng như cây mọc nghiêng về hướng tây, mỗi ngày đều hướng về tây mà lớn thêm, nếu bị gẫy thì cũng sẽ ngã về hướng tây.  Chúng ta phải tự hỏi mình có nghiêng về hướng tây không? (chỉ sợ là không có!).  Cái tâm của mình thường thường đều hướng về bốn phương tám hướng nhảy tùm lum, và không nhất tâm hướng thẳng về tây.  Hai mươi bốn giờ trong ngày, thời gian thiệt thà niệm Phật cũng không quá năm phút; nếu người siêng năng hơn một chút thì một ngày niệm được vài giờ, trong đó cũng không biết có bao nhiêu câu niệm được đàng hoàng (không xen tạp và không gián đoạn).  Cho nên cây này đúng là mọc tùm lum, nếu bị gẫy bất ngờ rồi ngã về hướng nào thì rất khó mà biết trước được.
Trong nhật ký bà đã viết sẵn di chúc dặn con cháu phải lo chuyện lâm chung như thế nào, đến sau này thì con bà mới tìm ra.  Cũng may là hậu sự cũng được làm giống theo ý muốn của bà.   Có một đoạn trong nhật ký làm cho tôi có ấn tượng rất sâu.  Bà có một người con đã từng làm khoa trưởng ở đại học Phùng Giáp bị tai nạn xe đã qua đời.  Lúc đó bà chưa học Phật và cảm biết được sự đau khổ trong đời người, bà viết: “Hôm nay là ngày vĩnh biệt con tôi và là ngày đau khổ nhất trong đời tôi”.  Một người mẹ nhận chịu sự đau khổ của người ‘tóc trắng tiễn đưa người tóc đen’ thật là chua xót biết bao.  Một người không tầm thường sẽ không vùi đầu vào sự đau khổ và tối ngày than vắn thở dài.  Người đó sẽ từ những sự khổ: ‘sanh, lão, bịnh, tử, thương xa lìa, ghét gặp mặt, năm ấm hừng hực (ngũ ấm xí thạnh)’ giác ngộ trở lại và bước theo gót chân của những thánh nhân hồi xưa.  Chúng ta hãy cùng nhau hướng về pháp hội Di Ðà vĩnh hằng vô tận, hướng về Liên Trì Hải Hội thanh tịnh, hoan hỷ, sáng lạng, tràn ngập tiếng cười.   Ấn Quang đại sư đã từng nói:
Ưng đương phát nguyện nguyện vãng sanh.   
Khách lộ khê sơn nhậm bỉ luyến
Tự thị bất quy, quy tiện đắc
Cố hương phong nguyệt hữu thùy tranh?
Tạm dịch:
Vãng sanh phát nguyện đi thôi,
Suối non đất khách mặc người quẩn quanh,
Quê nhà chẳng chịu về nhanh,
Hễ về ắt được, ai giành gió trăng?
Chúng ta đừng đi lang thang nữa.  Hãy học theo thế giới nội tâm của Hoằng Nhất đại sư: “Hoa chi xuân mãn, thiên tâm nguyệt viên”; hãy niệm Phật cho đàng hoàng.  Pháp môn niệm Phật là một pháp môn đặc biệt nhất trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của đức Phật Thích Ca, pháp môn này dễ thành công nhất.  Mỗi ngày niệm đến khi vô cùng thành khẩn thì giống như hồi nhỏ trẻ em thường ca:
“Xe lửa mau bay, xe lửa mau bay, bay qua núi cao, bay qua khe suối …”
Lúc niệm Phật trong tâm càng trải qua nhiều sự khó khăn thì cũng như xuyên qua núi cao, băng qua khe suối.  Và cũng giống như lời ca: “Mẹ hiền trông thấy thiệt là vui mừng”. Cha mẹ từ bi vô tận vô biên của chúng ta, đức Phật A Di Ðà đã dang tay ra từ lâu rồi, rất lâu rồi, khi nhìn thấy chúng ta quay trở về nhà thì vui mừng biết bao!  Nghĩ đến “Bồ Tát đón mừng, Di Ðà đợi ở ngưỡng cửa” tiếng vang dội từ xa truyền lại thì làm sao không bước mau lên….
Quay đầu nhìn lại tất cả những hình ảnh sanh tử bên bờ sông Hằng chúng ta giống như những người đang vùng vẫy sắp chết, chư Phật Bồ Tát từ bi nhảy vào dòng nước sanh tử tràn đầy đau khổ và dạy chúng ta dùng một câu “ A Di Ðà Phật” để chứng đến bản tánh bổn vô sanh diệt của chúng ta, đem giòng nước ác trược dơ bẩn này biến thành con sông thanh tịnh thánh thiện; đem lợn sóng cay đắng này biến thành những mùi thơm ngọt ngào. 
‘Không nỡ để chúng sanh khổ, không nỡ để thánh giáo suy’.  Nguyện cho chúng ta phát ra tâm từ bi, thường làm theo đại nguyện của đức Phật A Di Ðà mà cứu giúp tất cả chúng sanh, nguyện chúng sanh đều sanh đến Liên Trì Hải Hội trang nghiêm, cùng nhau thưởng thức mưa Mạn Ðà La hoa….
Xin quý vị thứ lỗi, tôi thường không có nội dung tốt đẹp gì để cúng dường cho quý vị, chỉ kể một vài câu chuyện thê thảm cho quý vị nghe, không muốn quý vị ghi nhớ những huyết lệ trong đó, chỉ nguyện cho quý vị trên con đường đời sớm giác ngộ.  Chúng ta phải làm ‘ngựa hạng nhất’ không cần phải đợi những sự đau khổ này đến kề bên người rồi mới chạy.  Ngựa hạng nhất là vừa thấy bóng dáng của cây roi phất ngựa là chạy liền.  Thấy người khác khổ, biết được đời sống có chuyện khổ như vậy, đừng chờ đợi nữa, hãy mau tu hành!  Ngựa hạng nhì là đợi đến khi roi đánh tới mình rồi mới chạy;  ngựa hạng ba là đợi đến lúc bị đánh tróc da chảy máu rồi mới chạy.  Ngựa hạng tư là cho dù trầy da tróc vảy, đau đến xương tủy cũng không biết chạy.  Có thể cũng có ngựa hạng năm là chết rồi cũng không sợ, loại này làm cho Bồ Tát phải rơi nước mắt!
Buổi diễn giảng hôm nay vốn là có đạo hữu đề nghị tôi đừng giảng hoặc là mời thầy khác giảng dùm.  (Ở đây thuận tiện nên báo cáo cùng quý vị đạo hữu luôn) Vì cũng như đã nói ở phía trước, chúng ta đều ở trong dòng sông sanh tử, những hình ảnh mà chúng ta thấy được trên sông Hằng đều là hình bóng của chính mình.  Tôi cùng tất cả bịnh nhân đều giống nhau, đều bị bịnh ung thư, bây giờ đúng lúc nhất tâm niệm Phật chuẩn bị vãng sanh.  Tôi đã nhận lời cùng quý vị nói chuyện ngày hôm nay (27 tháng 4).  Vì bác Hứa gọi điện thoại nhiều lần và vô cùng thành khẩn nên cho dù hôm nay chỉ có một người đến nghe tôi cũng sẽ nói.  Tại vì nếu có thêm một người niệm Phật vãng sanh Cực Lạc thế giới thì sẽ ít đi một người đau khổ rơi lệ.  Hơn nữa tôi đã gặp nhiều vị sư trưởng đều ‘không nỡ chúng sanh chịu khổ, không nỡ thánh giáo suy’, rán hết sức mình để đem những điều vô cùng quan trọng trong Phật giáo dạy cho chúng ta.  Hôm nay tôi có thể không ở trên giường bịnh rên siết, đến đây cùng các bạn học tập đều là nhờ ân đức của họ (những vị sư trưởng).  Tôi chỉ muốn rán hết sức mình (phấn đấu với bịnh đau) để báo đáp phần nào ân đức của họ.  Trong Ðại Trí Ðộ Luận, có một vị Bồ Tát nói: ‘Tôi đã mất đi thân mạng trong vô thỉ kiếp sanh tử vừa qua, chưa từng vì pháp (mà hy sinh)’.  Phải đúng vậy không?  ‘Quay đầu nhìn lại xương chất thành núi’, vô số lần mất mạng trong đời quá khứ đều nhẹ như hồng mao, chưa từng nặng như Thái sơn thì cũng phải mất mạng.  Chúng ta hãy vì Phật pháp, vì chúng sanh, chánh niệm rõ ràng, niệm Phật mà vãng sanh!  Nếu như trong những lời nói hôm nay có một tơ hào nào thành khẩn đáng quý, nguyện đem phần công đức này hồi hướng cho tất cả thiện tri thức, cha mẹ, thầy giáo, bạn bè đã nhắc nhở tôi trên con đường Bồ đề này.  Tôi xin cám ơn tất cả, cám ơn từng câu nói thành khẩn, không kể là khích lệ hay trách mắng; cảm ơn từng nụ cười, từng giọt lệ chân thành, từng lời dạy dỗ.   Cũng xin hồi hướng cho mỗi vị ‘bịnh nhân Bồ Tát’ của tôi, cho tất cả chúng sanh đang chịu đau khổ, nguyện cho họ sớm nghe được lời kêu gọi của Di Ðà trong nội tâm, đồng sanh nơi ‘không có sự khổ, chỉ toàn đều vui’ ở liên bang Cực Lạc.
Lúc tôi đi khám bịnh vì bác sĩ không biết tôi cũng hành nghề này nên lúc họ thảo luận bịnh trạng với nhau tôi nghe và biết rất rõ và cũng nhìn thấy chỗ ung thư qua máy siêu âm.  Chỗ ung thư này đến lúc tôi có thời gian đi khám thì đã quá lớn, lớn đến gần hết phía dưới bụng.  Tôi rất xấu hổ không biết và lo chữa sớm, thiệt là quá tệ.  Mỗi lần ‘beeper’ kêu là tôi phải mau mau chạy đi, nhiều khi đang tắm cũng phải ngưng và chạy đi.  Mấy ngày trước khi đi khám, chân tôi sưng lên đến nỗi mang giày không được nhưng cũng phải rán mang như mang dép đi làm.  Tuyết Công có nói: “Nếu có mười phần sức lực mà chỉ dùng hết chín phần thì không đủ thành tâm”.   Tôi không có cảm giác lo sợ hay khủng bố gì hết, cảm thấy rất bình thường, chỉ quyết tâm niệm Phật cầu sanh tây phương, tận dụng hết thời gian còn lại để hoàn thành công việc mình phải làm, gặp mặt những người giác ngộ từ xưa đến nay.  Chỉ cần tin tưởng Phật pháp, tin tưởng điều giác ngộ thứ nhất dạy trong kinh Bát Ðại Nhân Giác là ‘thế gian vô thường’, nếu như vậy thì chuyện này rất bình thường, không cần phải hỏi: “Có thiệt không?  Tôi làm sao mà bị bịnh này được”.   Bịnh nhân thường hỏi như vậy lắm.  Và cũng không cần phải khóc: “Không.  Không thể nào là tôi được.  Tôi không thể nào bị bịnh này được (bịnh nhân thường kháng cự giống như vậy).  Tại sao không thể là chúng ta được?   Rất có thể là chúng ta.  Hoặc giả vốn là luân phiên đến lượt chúng ta. Hãy thức tỉnh đi, vận dụng thời gian còn lại đừng lãng phí và chạy trốn nữa!
Kể từ ngày sanh ra đời này, chúng ta ai nấy đều từ từ tiến dần đến cái chết.  Có một người bạn sen thường hay nhắc nhở chúng tôi: “Mọi người đều có một sự việc luôn luôn dũng mãnh tinh tiến, đó là từ lúc sanh ra đời thì liền từ từ tiến dần đến trạm cuối của cuộc đời.” 
Lại còn nói: “Nếu nói bạn trưởng thành thì bạn rất vui, nhưng nếu nói là bạn đang đi về phần mộ thì bạn rất buồn, thiệt ra hai chuyện này đều là một”.  
Lại có người hỏi: “Quý vị là những người tin Phật thì làm sao có thể bị bịnh ung thư được?” 
Kinh Phật nói với chúng ta rất rõ ràng từ vô thỉ kiếp đến nay, những ác nghiệp mà chúng ta đã làm, nếu tính ra thì là vô lượng vô biên.  Giả sử những ý niệm, ngôn ngữ, và hành vi sai lầm của chúng ta có thể tích và có hình tướng thì cả tận hư không này cũng chứa không hết.  Muốn biết nhân ở thời quá khứ cứ xem những gì mình thọ nhận ngày hôm nay thì biết được;  muốn biết quả tương lai, cứ xem những gì mình làm hôm nay thì biết được. 
Từ lũy kiếp đến nay, không biết tôi đã làm hại hết bao nhiêu chúng sanh, đã làm bao nhiêu sanh linh đau khổ, bây giờ quả báo hiện ra thì phải nhận chịu một cách vui vẻ và bình tĩnh; chúng ta niệm Phật phải noi theo trí huệ và lòng từ bi của chư Phật, nguyện cho tất cả những chúng sanh bị tôi làm hại lúc trước đều được tắm gội trong ánh sáng từ quang giác ngộ, hóa giải những oán hận kết tập lại trong nội tâm, phá bỏ tất cả không cho oan oan tương báo tiếp tục.  Ðây là sự gia trì tốt nhất của chư Phật Bồ Tát cho tôi, miễn hết tất cả những trách móc và so đo không cần thiết, tất cả những gút mắt tình cảm không tốt đẹp.  Giả sử ngày mai là ngày tận thế, tối nay tôi vẫn phải trồng đầy hết ‘phần đà lợi hoa’ (hoa sen) trong vườn, dưới gió mát trăng thanh phải lớn tiếng niệm Phật A Di Ðà.  Vẫn có nhiều bạn không bỏ qua được, cứ trách móc Phật Bồ Tát không gia trì cho tôi, để cho tôi mang bịnh này. Thiệt ra không phải là Phật Bồ Tát làm cho tôi mắc phải bịnh này; chúng ta hãy nghĩ xem một hạt dầu khi nhỏ vào nước sẽ nổi lên mặt nước, trái lại viên đá sẽ chìm xuống đáy nước.  Nghiệp chướng của tôi cũng nặng như viên đá cho nên tự nhiên sẽ chìm xuống đáy, sẽ mang bịnh.  Rất may đức Phật A Di Ðà đã chuẩn bị đại nguyện, đem chiếc ‘hàng không mẫu hạm’ để cứu vớt tôi và tất cả chúng sanh có nghiệp chướng sâu nặng.  Nên tôi không lo gì cả, chỉ cần có tín nguyện kiên cố, chấp trì danh hiệu Phật, nhất định sẽ vãng sanh.   Ngẫu Ích đại sư không phải đã nói với chúng ta rồi sao:
Ðược sanh hay không toàn do có tín nguyện hay không,
 phẩm vị cao thấp toàn do trì danh sâu hay cạn”. 
Tôi tuy là chưa niệm đến mức ‘nhất tâm bất loạn’ nhưng tiếp tục nỗ lực gắng sức niệm và tin đức Phật A Di Ðà sẽ lại tiếp dẫn.  Tôi hiểu được đời người cũng giống như quá trình vẽ một hình đức Phật.  Mỗi một nét chúng ta đều dùng tâm hết sức chân thành để vẽ!  Ðừng để khi gác cọ xong rồi nhìn lại bức tranh mình vẽ lại thành ra một con chó sói hoặc là một con heo thậm chí là một con ác quỷ!
Tôi biết có một bịnh nhân vô cùng siêu thoát, bà đã dạy cho tôi rất nhiều.  Bà bị ung thư gan.  Lúc bà vào bịnh viện là vì đường tiêu hóa bị chảy máu chứ không phải vào để trị bịnh ung thư.   Ðêm đó nhằm ngày tôi trực ở bịnh viện, tôi giúp bà đút ống vào mũi đến dạ dày, đổ nước đá vào để cầm máu và cũng để khám chỗ chảy máu.  Thường khi đút ống vào mũi thẳng đến dạ dày phần đông bịnh nhân ai cũng rên xiết kêu đau, nhưng bà này rất là điềm đạm an nhàn, không nhăn nhó tí nào, có vẻ dường như không có chuyện gì xảy ra hết. Sau đó tôi nhìn thấy vết thẹo mà những người thọ giới đốt để lại trên tay mới biết bà là một người biết tu hành đã lâu. 
Ðêm đó bịnh nhân rất đông tôi phải làm việc liên tục đến 5 giờ sáng.  Lúc đi ngang qua giường, bà chắp tay nói: “A Di Ðà Phật, chào bác sĩ”.  Lúc đó bà đang nằm ở giường tạm đặt ngoài hành lang vì bịnh viện không đủ giường cho bịnh nhân nên phải đặt thêm giường tạm.  Những bịnh nhân nằm những giường này luôn luôn phàn nàn là ‘nhiều người đi qua lại ồn quá’ và ‘đi nhà vệ sinh không thuận tiện’.  Nhưng bà này lại không phàn nàn gì hết, bà nở nụ cười chắp tay niệm Phật (lúc đó đang đút ống vào mũi) và nói: “Ở đây không khí thiệt là tốt, sáng sớm bốn giờ mấy là tôi đã làm xong công phu (tụng kinh) khóa sáng!  Nghe xong tôi rất cảm động, tâm lượng của bà quá đẹp.  Trong hoàn cảnh không thuận lợi, nơi chốn ồn ào, thân thể đang bịnh nặng, đối với bà tất cả đều là: “rất thanh tịnh mát mẻ”.  Chúng ta đừng xem thường công phu niệm được một câu A Di Dà Phật trong lúc này (mỗi người thử đút một ống vào mũi rồi niệm thử xem).  Thường ngày muốn niệm đến tương ứng trong niệm này phải dẹp sạch tất cả phiền não của tạp niệm lên xuống (giả như muốn được niệm niệm đều tương tục thì phải niệm niệm đều thoát ra khỏi vòng vây, niệm niệm phải đều thắng lợi, phải chiến thắng tất cả vọng tưởng) huống chi là lúc khổ nhất!   Muốn có một niệm A Di Ðà Phật mà ‘tâm và miệng tương ứng với nhau’ phải có tâm lực mạnh mẽ để khắc phục tất cả đau khổ và khó khăn, bạn có biết không?  Cho nên một câu niệm Phật và vài câu nói của bà đã làm cho tôi cảm động rơi lệ.  Tôi khám chỗ đau của bà, cảm thấy gan cứng và sưng lên và nghi là ung thư. Qua ngày sau rọi siêu âm và thử nghiệm thì biết là ung thư gan đã lớn đến đường kính tám phân (8 cm).  Thấy thái độ và biểu hiện khác người của bà cho nên tôi nói thiệt bịnh tình cho bà biết (thường thường thì chúng tôi phải suy nghĩ cân nhắc trước khi nói với bịnh nhân).  Một người học Phật chân chính sẽ xem chuyện sanh tử rất là bình thường.  Chúng ta sợ nhất là trí huệ không khai mở, đời này hồ đồ lộn xộn, chết đi rồi lại tiếp tục sanh vào lục đạo luân hồi.  Khi đã hiểu rõ đạo lý này sẽ không kêu trời trách đất và sẽ niệm Phật đàng hoàng, đặt bước trên con đường về cố hương, chuẩn bị tham gia liên trì hải hội.  Ðây là sự ‘phò hộ’ tốt nhất, tình cảnh bi thương là đau khổ đối với người khác, nhưng chúng ta vui vẻ xem như là chuyện thường, đây là lễ vật của chư Phật Bồ Tát! Mười triệu đồng có thể mua được đủ loại chữa trị (không thiếu đau khổ giày vò) nhưng mua không được tâm bình tĩnh vui vẻ, còn lễ vật nào quý hơn tâm này không?  Lúc tôi nói thiệt bịnh tình cho bà biết, bà nói liền giống như đã chuẩn bị lời văn từ trước: “Tôi sống ngày nào thì phục vụ thêm một ngày cho chúng sanh, đến ngày tôi sắp chết, đức Phật A Di Ðà sẽ lại rước tôi đi”.  Bà siêu thoát như thế đó, tràn đầy từ bi và lòng tin, thần sắc của bà khắc sâu vào tâm khảm của tôi, làm thành một sức mạnh có khả năng khuyến khích và giúp đỡ tôi vượt qua rất nhiều khó khăn chướng ngại thường ngày.
Thiệt tình mà nói, không phải là tôi đi làm bác sĩ mà phải nói là tôi đang ‘đi học’, ‘bịnh’ của tôi nặng nhất trong số những người bịnh, ‘các thứ xấu ác’ trong tâm nhiều quá; tham, sân, si, mạn … đều rất nặng.  Mỗi bịnh nhân đều đến thị hiện một hoàn cảnh đặc biệt để dạy cho tôi hiểu được một đạo lý nào đó.  Người nào cũng rất từ bi không tiếc đem những lời dạy và những câu chuyện sống động đầy máu và nước mắt để dạy và làm cho tôi hiểu được lời trong kinh Lăng Nghiêm ‘Chương Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông’ đoạn ‘Mười hai vị Như Lai liên tục một kiếp, vị Phật sau hết danh hiệu Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy tôi Niệm Phật Tam Muội’.  Có một thầy giáo nói: “Thiện duyên của đức Ðại Thế Chí Bồ Tát vô cùng tốt đẹp có thể gặp được muời hai vị Phật và được truyền dạy Niệm Phật Tam Muội; chúng ta một vị Phật cũng không gặp được”.  Tuy là thiện căn của tôi rất mỏng, nhưng nhân duyên thì rất đặc biệt, rất tốt!  Mỗi ngày đều có một vị Bồ Tát đem hình ảnh của sự khổ nạn vô tận trên sông Hằng đến để cảnh tỉnh và giúp cho tôi giác ngộ: niệm Phật đi, niệm Phật đi; họ giúp tôi trao dồi tâm lực, giúp tôi buông xả.  Ðây là sự gia trì của chư Phật Bồ Tát, giả sử không có sự từ bi gia trì này, khi nghe đến ‘tên bịnh’ thì tứ chi liền phát run, tay chân không còn sức lực nữa và khóc: ‘Thù hận trong đời người làm sao miễn được, …’
Có khi tôi thấy rất nhiều người thầm thầm vái ở trước tượng Phật, đôi lúc tôi cũng muốn hỏi họ khấn vái những gì?  Mỗi người thắp ba cây nhang rồi ‘rù rì rù rì’ khấn vái, lời họ khấn chắc còn dài hơn 48 đại nguyện của đức Phật A Di Ðà; nào là: xin ngài phò hộ cho con tôi thông minh khỏe mạnh, có thể thi đậu vào trường Y Khoa (tốt nhất là trúng tuyển hạng nhất); phò hộ cho con tôi cưới được một người vợ hiền hậu hiếu thảo; phò hộ cho chồng tôi sự nghiệp phát tài kiếm được thiệt nhiều tiền; phò hộ cho tôi trúng số độc đắc và được lên chức… Nói ra tràng giang đại hải xong rồi đem trái cây cúng Phật đem về nhà ăn cho ‘được bình an’.  Nếu cầu không được toại nguyện liền trách móc Phật Bồ Tát không phò hộ, chỉ ‘nhìn’ đồ cúng và ‘ngửi’ hương tôi cúng rồi thôi, không ‘linh’ tí nào!  (Thiệt ra họ đâu biết tự mình không hiểu nhân quả, không làm theo lời dạy của Phật, là tự mình không ‘linh’). Chúng ta thử nghĩ xem người ta mong cầu những gì?  Chẳng qua là cầu cho da mặt mình nhăn thêm một chút (cầu trường thọ sống lâu thì tránh không khỏi da nhăn tóc bạc); cầu gánh nặng vác trên vai nặng thêm (cầu con cái đầy nhà thì nhiều phiền não); cầu chướng ngại trong đời sống nhiều một chút (lo danh lợi, lo ‘được’, lo ‘mất’).  Người ta chỉ cầu để được nhiều những thứ nhỏ nhặt này.  Thật ra pháp lực của chư Phật Bồ Tát rộng lớn vô biên và có thể cho chúng ta sự phò hộ thần kỳ mà lại vĩnh cữu, cho chúng ta một chìa khóa trí huệ để khai mở kho tàng vô tận trong tự tánh, có thể lấy ra sự hạnh phúc vô tận.  Sự hạnh phúc này không bị hoàn cảnh thay đổi làm mất đi, không bị ăn trộm, không bị giựt, cũng không bị mất.  Cái chìa khóa này chính là xưng niệm ‘Nam Mô A Di Ðà Phật’; chỉ cần tiếp nhận rồi thiệt tình đi mở, ai cũng có được kho tàng quý báu vô tận!
Vì tôi bị bịnh nên có người nói: “Cô ăn chay thiếu dinh dưỡng nên mới bị bịnh”.  Thiệt ra chỉ cần so sánh là biết ăn chay được khỏe mạnh và sống lâu;  giống như đoạn trước có nói đến lão hòa thượng Hư Vân và Quảng Khâm, Tuyết Công lão ân sư đều là ‘nhân thụy’ (người  trường thọ và vô cùng khỏe mạnh).  Nhưng ăn chay không phải để cầu trường thọ mà là không muốn vì sự hưởng thụ ngắn ngủi trên ba tấc lưỡi của mình đem lại sự lo sợ sắp bị mất mạng và sự đau khổ cùng cực cho chúng sanh; mỗi con bò chờ đợi bị làm thịt cũng run và chảy nước mắt, mỗi con chim bị bắt đều có những con chim mẹ đang chờ đợi con bay về tổ.   Chúng ta chưa bao giờ nghe hoặc thấy con gà nào tình nguyện trườn cổ dài ra đợi bị làm thịt, nhổ lông và nói: “Tốt quá, tôi sẽ được đi làm con gà nướng!”.  Như những bịnh nhân của tôi luôn vùng vẫy trong sự đau khổ bên bờ sanh tử, mỗi một con vật đối diện với cái chết đều sợ phát run lên.  Nếu tôi xem thường mạng người, không đếm xỉa đến sự đau khổ của người bịnh, họ nhất định sẽ không tha thứ cho tôi.  Cũng giống như vậy nếu chúng ta xem thường sự đau khổ của các loài vật khác, chúng nó cũng sẽ không tha thứ cho chúng ta.  Nếu bạn chặt một cái đùi của nó, nó cũng sẽ tìm cách để làm bạn gãy đi một cái chân; cứ như vậy oan oan tương báo, trở thành oan gia chủ nợ lẫn nhau, vĩnh viễn không có ngày thoát ra, trong sự oán thù rối nùi này ai cũng vô cùng đau khổ! 
Tôi từng nghe một vị pháp sư thuật lại câu chuyện thật như sau:  Một hôm có người bồng em bé nằm trong nôi đi bái kiến lão hoà thượng Quảng Khâm.  Ðứa bé mặt mũi khôi ngô rất là dễ thương, ai nhìn cũng thích và muốn nựng em bé.  Chỉ có lão hòa thượng vừa nhìn thấy liền hiện vẻ không vui (mặt trầm xuống) và nói với chúng đệ tử: “Nó lại để đòi nợ đó (chỉ em bé)”.  Mọi người đều không hiểu.  Lão hòa thượng mới nói với những người này: “Quý vị làm ăn buôn bán gà đông lạnh phải không?  Hãy xem đứa bé”.  Cha mẹ của em vừa khóc vừa gật đầu rồi vạch áo của em ra; em bé tuy có bộ mặt rất dễ thương nhưng phía dưới thân mình lại giống y hệt như thân hình của một con gà!  Lão hòa thượng không ngớt lời khuyên họ nên đổi nghề.  Họ nói: “Ðã tốn hết 30 triệu đồng trong việc thiết bị hệ thống đông lạnh, rất là khó mà đổi….”  Tôi nghĩ tiền lời được trong việc làm ăn này có lẽ cũng không đủ trả tiền thuốc men cho em bé, càng không thể bù đắp nổi những giọt nước mắt chảy ra... (Vì tôi biết rất nhiều bịnh nhân có tình trạng giống như vậy).  Nhưng phần đông người ta thà chịu khổ, chịu tổn hao tài sản sau này, và còn mất thêm sự hạnh phúc cả đời người nhưng không chịu buông bỏ cái lợi trước mắt, sự thèm muốn của cái miệng và cái bụng của mình.  Lão hòa thượng là người có pháp nhãn, vừa nhìn thì đã thấy rõ nhân quả, hết lòng khuyên nhủ, nhưng có mấy ai tin và chịu làm theo? 
Người ta thường cầu Phật phò hộ nhưng không tin lời Phật nói, thiệt là kỳ lạ!  Cho dù hôm nay có một danh y bác sĩ nổi tiếng nào nói với tôi là ‘đổi ăn thịt’ đừng ăn chay nữa thì có thể chữa cho tôi hết bịnh, tôi cũng không chịu đi hy sinh tánh mạng của con gà, heo, dê, bò, để gây ra sự đau khổ cho chúng nó.  Huống chi không có một bác sĩ nổi tiếng nào có thể xác nhận ăn mặn (ăn thịt) thì sẽ ‘kéo dài đời sống lâu’ hơn là ăn chay; bất kỳ bác sĩ nổi tiếng nào cũng sẽ chết, họ cũng không thể bảo đảm ăn thịt có thể trường sanh thì làm sao có thể bảo đảm cho tôi?  Thì làm sao có thể bảo đảm cho người khác?  Tôi chỉ tin tưởng lời Phật dạy và trí huệ của Phật.  Hôm nay tôi có thể lấy được thêm một số ‘đản bạch chất’ và chất béo từ thịt động vật, nhưng tôi không thể bù đắp nổi sự đau khổ của chúng nó, không thể an ủi sự sợ hãi khủng bố của chúng nó, càng không lau hết nước mắt của má chúng nó khóc con mất mạng.  Có một ngày nào đó chúng nó sẽ quay lại để trả thù.  Nhân quả của con người rất là phức tạp nhưng không sai chạy tí nào.  Mắt thịt của phàm phu chúng ta chỉ nhìn thấy một mà không nhìn thấy hai, thường cho ‘quấy’ thành ‘phải’.  (Hồi xưa, Nicolaus Copernicus (1473-1534) nói địa cầu là tròn xém chút thì phải mất mạng.  Chúng ta nói nhân quả báo ứng và lục đạo luân hồi, nếu bị chê là ‘mê tín’ thì cũng là ‘việc nhỏ’ mà thôi). 
Thiệt ra danh từ ‘chủ nợ’ không hẳn là phải ‘đeo mắt kiếng đen, hút thuốc lá thơm, cầm súng, mặt đầy ác khí, đi đến trước cửa để đòi nợ’.  Chủ nợ có rất nhiều dạng: có thể là một người đẹp mà bạn vừa nhìn đã bị ‘hốt hồn’ đi mất rồi, bạn không có suy nghĩ liền đem tiền cho người đó phung phí, đến khi hết tiền thì người đó bỏ bạn, làm cho bạn âu sầu ủ rũ cả đời.  Hoặc có thể là người khi bạn mới nhìn thì nổi nóng lên, mặt đỏ gay lên để cãi lộn với họ, rốt cùng rồi làm cho bạn lên huyết áp, chảy máu trong đầu và chết bất ngờ.  Chúng ta hãy nên tin lời nói đầy trí huệ của chư Phật Bồ Tát, tránh làm hại và kết oán thù với chúng sanh, tại vì tất cả sự khổ đều sẽ quay trở vào thân mình, thường là hối hận không kịp. Chúng ta hãy quyết tâm luôn luôn kết thiện duyên, khai mở trí huệ trong bổn tánh, mở ra nguồn vui sướng vô tận không phải là tốt đẹp hơn không?  Những người như vậy, giống như lão hoà thượng Quảng Khâm và Tuyết Công lão ân sư cho dù sống cả trăm tuổi mọi người đều thương tiếc ‘Tại sao ngài lại ra đi sớm vậy?’ ‘Tại sao không sống đến hai trăm tuổi, để cho cháu chắt của tôi cũng có dịp gặp ngài?’  Thọ mạng của các ngài vĩnh viễn đối với mọi người đều không đủ.  Phần đông người ta chỉ cần sanh ra một bịnh nan y, ai cũng than là tại sao họ lại ‘kéo’ [mạng sống] quá dài như vậy, làm cho cả nhà ‘kéo’ đến gần sụp luôn.  Nói như vậy thì ‘trường thọ’ hay không, không phải dựa trên ‘số tuổi’; chúng ta nên sống mà mọi người đều tiếc là quá ngắn, nhưng đừng nên ‘kéo’ dài để cho ai cũng than là quá dài! 
Thiệt ra phải sống làm sao mới tốt?  Thì nên nghe theo lời dạy của đức Phật và những người đã đắc đạo trong quá khứ, nên thật tình niệm Phật!  Dùng cái tâm tánh không thể nghĩ bàn và rộng lớn vô biên của chúng ta để xưng niệm danh hiệu không thể nghĩ bàn của đức Phật Vô Luợng Thọ Vô Lượng Quang A Di Ðà; mỗi khi niệm một tiếng thì có một tiếng vượt ra khỏi trần lao!  Nguyện cho chúng ta dùng lòng tín nguyện vô cùng vững chắc, trang nghiêm từng danh hiệu A Di Ðà Phật, mỗi một niệm đều chiến thắng tất cả phiền não, mỗi một niệm đều đầy đủ quang minh tự tại, mỗi một niệm đều hiện ra trời trong trăng sáng.  Dùng danh hiệu bất khả tư nghì này thể hội được vô lượng quang thọ của tự tánh.  Cũng như Ngẫu Ích Tổ sư có nói: “Chuyển kiếp trược thành hải hội thanh tịnh, chuyển kiến trược thành vô lượng quang, chuyển phiền não trược thành thường tịch quang, chuyển chúng sanh trược thành liên hoa hoá sanh, chuyển mạng trược thành vô lượng thọ”.  Nguyện từng tiếng Phật hiệu thành khẩn, thiết tha đem sóng nước cuồn cuộn trên sông Hằng sanh tử trồng đầy hoa sen….
Nam mô A Di Ðà Phật.

Trong quá trình chuyển ngữ chắc không tránh khỏi thiếu sót, xin các bậc thức giả hoan hỷ phủ chính cho. 
Xin thành thật cám ơn.

Một nhóm Diệu Âm cư sĩ, 9 tháng 4-1991