Thứ Bảy, 4 tháng 12, 2010

Ai cũng có thể thành Phật

Trích: Long Thư Tịnh Ðộ Văn
của cư sĩ Hư Trung Vương Nhật Hưu đời Tống

Mạnh Tử nói: “Ai cũng có thể là Nghiêu, Thuấn”. Tuân Tử nói: “Người tàn ác cũng có thể trở thành ông Vũ”. Thường Bất Khinh Bồ Tát nói: “Tôi chẳng dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật” là vì ai cũng có thể là thánh hiền, cũng có thể thành Phật. Tây Phương Tịnh Ðộ chính là đường lối tắt trọng yếu, không ai chẳng tu được. Vì thế, khuyên khắp mọi người nên tu trì.
Kệ khuyên tu Tây Phương của Ðại Từ Bồ Tát có câu:
Khuyên được hai người tu,
Như chính mình tinh tấn
Khuyên được mười người khác
Phước đức đã vô lượng
Nếu khuyên trăm, ngàn người
Ðáng gọi chơn Bồ Tát
Lại khuyên hơn vạn người
Chính là Phật Di Ðà.
Xem đó thì biết thuyết Tây Phương chẳng phải là cái tâm quảng đại muốn cho người người cùng biết đến đạo này để tích tụ vô lượng phước báo hay sao?
Phàm đối với thầy, bạn, những bậc có ân, tính xuống cả tôi tớ đều nên lấy việc bảo cho họ biết về pháp Tịnh Ðộ để báo đáp. Phàm đối với hết thảy những ai dù biết hoặc không, hiểu hay chẳng hiểu, ta đều muốn dùng pháp này để giáo hóa khiến họ cùng sanh Tịnh Ðộ.
Hết thảy chim bay, thú chạy, thậm chí loài trùng bay, bò, cựa quậy, bất cứ loài nào có hình tướng thấy được, hễ ta trông thấy thì đều vì chúng niệm Phật vài tiếng, phát thiện nguyện rằng:
“Nguyện các ngươi hết kiếp sống này sẽ sanh vào thế giới Cực Lạc. Sau khi ta đắc đạo sẽ độ hết các ngươi”.
Ðối với những loài ta chẳng thấy được hình tướng của chúng thì cũng nên phát nguyện như vậy.
Như thế thì thiện niệm mới chín muồi, đều có duyên đối với hết thảy chúng sanh, ắt sanh trong Thượng Phẩm Thượng Sanh, mai sau hóa độ không ai chẳng vui thuận theo.
Trai tăng cúng Phật, thắp hương, dâng hoa, treo phan, dựng tháp, niệm Phật, lễ sám là những cách để sùng phụng Tam Bảo, đem công đức ấy hồi hướng nguyện sanh Tây Phương cũng được.
Hoặc là làm các thứ việc lành phương tiện lợi ích thế gian:
Hoặc là hiếu dưỡng phụ mẫu, yêu mến bạn bè, con em, trong khuê môn hết sức làm lành, họ hàng hòa thuận, xóm giềng làng nước thân thiết, lấy lễ đãi nhau, làm ơn cho nhau.
Thờ vua thì dốc lòng son báo quốc, làm quan thì nhân từ lợi dân, khéo an quần chúng, chăm phục vụ cấp trên.
Hoặc dạy dỗ kẻ ngu mê, hoặc giúp người cô đơn, yếu đuối. Hoặc giúp kẻ mắc việc cấp bách, chu cấp người nghèo. Hoặc sửa cầu đào giếng, hoặc thí thuốc chia cơm, hoặc giảm việc phụng dưỡng chính mình để làm lợi người khác, hoặc bỏ tiền của giúp người.
Hoặc là tự tiết kiệm, giản ước, hoặc dạy người khác làm lành, hoặc khen thiện, ngăn ác. Tùy sức làm hết thảy việc lành. Dùng đó để hồi hướng nguyện sanh Tây Phương cũng được.
Hoặc làm hết thảy những việc lợi ích thế gian chẳng nệ là lớn, nhỏ, nhiều, ít.
Dù chỉ là thí một đồng hoặc một chén nước cho người, thậm chí với mảy may điều lành đều khởi niệm rằng: “Dùng thiện duyên này hồi hướng nguyện sanh Tây Phương”, thường khiến cho nhất niệm chẳng đoạn, niệm niệm hướng về đó ắt sẽ sanh trong Thượng Phẩm.
Tu Tịnh Ðộ nên thuận theo địa vị của mình mà làm lành để giúp công cho việc tấn tu:
a. Tăng phải nên sớm tu Tịnh Ðộ để thoát ngay ra khỏi luân hồi, gặp gỡ Phật A Di Ðà thì mới là hoàn tất phận sự của người xuất gia. Hễ nhận lấy một đồng cúng thí của người khác, được cúng một bữa ăn đều phải nên vì người đó dạy cho pháp Tịnh Ðộ để báo đức. Dù kẻ ấy chẳng tin cũng khiến cho người ấy biết đến pháp này. Nghe quen tai dần, lâu ngày sẽ tự tin. Hãy nên thường giáo hóa người khác như thế thì hiện đời được người khác cung kính, thân sau ắt đạt Thượng Phẩm Thượng Sanh.
b. Kẻ sĩ phải nên chăm chỉ học hành, dốc lòng hiếu thuận, nghĩ xa đến đời ông tổ, ông sơ của mình nếu ai còn sống thì làm cho họ lưu tâm nơi đạo này.
c. Hàng quan lại phải tu phước, làm các phương tiện nhằm ái nhân lợi vật. Dùng đấy để hồi hướng Tây Phương, thoát ngay ra khỏi luân hồi, thọ - lạc vô cùng.
d. Kẻ giàu nên tùy phận mà sống, giảm tiêu xài để giúp người, chẳng tiếc của làm lành, chẳng tham của làm ác, thường nghĩ phước thế gian có lúc hết. Nếu hồi hướng về Tây Phương thì sẽ vô tận.
e. Kẻ gặp lắm nỗi truân chiên đừng oán trời trách người, nên siêng sám hối, thường niệm Phật cho tiêu túc chướng, tăng trưởng thiện duyên.
Nếu có thể lần lượt giáo hóa người khác như thế khiến cho họ lại khuyến hóa người khác thì hiện đời có thể tiêu tai, được phước, thân sau ắt sanh trong Trung Phẩm, Thượng Phẩm.
Nông, thương đều nên tự nghĩ: Cày cấy sát hại sanh mạng loài vật, mua bán sao khỏi có lúc dối trá, hãy nên tránh chuyện ngoắt ngoéo, sám hối làm lành. Kẻ làm thợ đừng mong mỏi quá đáng, nên làm việc tận tâm.
Ai nấy đều nên thường niệm Phật, nguyện thấy Phật đắc đạo rồi thì trước hết sẽ độ những kẻ mình trót đã sát hại từ khi sinh ra đến nay cũng như những chúng sanh mình từng giao thiệp. Kế đó, độ hết thảy kẻ oán, người thân và chúng sanh hữu duyên, vô duyên. Niệm niệm bất tuyệt như thế, niệm tự thuần thục, nhất định sanh về thế giới Cực Lạc.
Nếu ai nấy làm như thế để giáo hóa người khác, khiến cho họ lại khuyến hóa người khác thì hiện đời được phước, thân sau ắt sanh trong Trung Phẩm, Thượng Phẩm.
Kẻ chài lưới, săn bắn, đồ tể, đầu bếp và người mở tiệm ăn đều phải nên tự nghĩ: cá, tôm, cầm thú đều là tánh mạng mà mình sát hại, tội ấy vô lượng. Nếu có thể đổi nghề thì là tốt nhất. Còn nếu không đổi ngay được thì nên giảm bớt dần, chớ giết nhiều mạng những loài vật nhỏ và ốc, hến, lươn, ba ba v.v… là những con vật khó chết.
Thường niệm Phật sám hối, phát đại nguyện rằng: “Nguyện sau khi tôi thấy Phật đắc đạo, sẽ độ hết những kẻ bị tôi giết và bị tôi ăn thịt từ khi sanh ra đến nay khiến đều sanh Tịnh Ðộ”.
Niệm niệm bất tuyệt như thế, niệm tự thuần thục cũng sanh về thế giới Cực Lạc. Nếu giáo hóa người khác như vậy, khiến họ lại khuyến hóa người khác thì hiện thế sẽ tiêu tai diệt tội, thân sau cũng chẳng ở trong Hạ Phẩm Hạ Sanh.
Kẻ trong chốn phong trần cũng nên tự tỉnh ngộ, đoạn trừ dâm nghiệp. Nếu chưa đoạn nổi thì thường niệm Phật, phát đại nguyện rằng:
“Nguyện ác nghiệp của con ngày một tiêu trừ, thiện nghiệp ngày một tăng trưởng, cơm áo tạm đủ, chóng thoát khỏi chốn này. Sau khi gặp Phật đắc đạo rồi sẽ độ cho hết thảy những người vì tôi mà làm chuyện dâm dục đều sanh Tịnh Ðộ”.
Kẻ tội ác bịnh khổ nên gấp sám hối, hồi tâm niệm Phật, thệ nguyện chẳng làm ác sát sanh nữa, chẳng còn lại não hại hết thảy chúng sanh nữa. Nguyện đời này sớm hết bịnh khổ; sau khi gặp Phật đắc đạo sẽ độ cho hết chúng sanh bị mình sát hại trong đời trước, đời này và hết thảy kẻ oán, người thân đều sanh Tịnh Ðộ.
Niệm niệm bất tuyệt, niệm tự thuần thục quyết định sanh về thế giới Cực Lạc. Nếu giáo hóa người khác như vậy, khiến họ lại khuyến hóa người khác thì hiện thế sẽ tiêu tai diệt tội, bịnh khổ ắt lành. Phước báo vô cùng, thân sau ắt sanh về thế giới Cực Lạc.

Thiện Đạo Đại Sư Ngữ Lục

Cẩn Dịch : Vọng Tây Cư Sĩ

Giới thiệu pháp môn Tịnh Độ:
Pháp môn Tịnh Độ là do Phật A Di Đà kiến lập, Thích Ca Mâu Ni Phật đã tuyên dương, mười phương tất cả chư Phật đều cùng khen ngợi đại pháp vô thượng siêu thắng khác biệt. Do lòng tin sâu này, mà phát ra nguyện vọng chân thật, nhàm chán Ta Bà, không sợ chết, bằng lòng xả bỏ tất cả thế gian vô thường; vui cầu Cực Lạc, thích được chết, bằng lòng chết sớm một chút, sớm một chút được vãng sanh Tây Phương, thân cận Phật A Di Đà.
Chuẩn bị đầy đủ loại tâm tình Tín nguyện này, bất cứ chúng sanh nào trong mười phương, chỉ cần xưng niệm “A Di Đà Phật”, Phật A Di Đà liền sẽ y theo thệ nguyện đích thân tiếp dẫn, dùng Phật lực tiếp độ chúng sanh niệm Phật, vượt khỏi sanh tử, vĩnh thóat luân hồi.

Tâm tình của người niệm Phật:
Ba ơi! Con muốn về nhà!
Niệm Phật, kỳ thật chỉ là một lọai tâm tình rất đơn thuần. Tâm tình khi niệm câu “ Nam Mô A Di Đà Phật” này, thì cũng giống như đứa con đọa lạc liêu lổng nhiều năm, nay muôn quay về nhà, khóc thét lên rằng: "Ba ơi! Con muốn về nhà!" loại tâm tình như vậy . Ngay Khi đứa trẻ mê lạc, bổng nhiên hối ngộ, khóc thét lên rằng: “Ba ơi! Con muốn về nhà!”, người cha đã nhiều năm chờ đợi mỏi mòn, ngày nhớ đêm mong đứa con của mình, nhất định sẽ vui mừng đến rơi nước mắt, cho dù có liều cái mạng già cũng sẽ toàn tâm tòan lực cứu giúp đứa con, tiếp rước con về nhà, cho con tất cả sự ấm áp nhất tốt đẹp nhất trong nhà.
Đứa con bị bệnh rồi! thất nghiệp rồi! nợ nần chồng chất! Lại cách nhà rất xa! Con đường hiểm ác v.v. những thứ này đều không phải là vấn đề, tất cả những vấn đề khó khăn này, người cha đều sẽ vì đứa con mà lo liệu giải quyết, vấn đề là ở đứa con có chịu trở về nhà hay không mà thôi.

Vì sao chúng ta niệm Phật mà không thể vãng sanh ?
Dựa trên lý mà nói pháp môn Tịnh Độ là nhờ Phật lực của Phật A Di Đà cứu giúp, thì bảo đảm vãng sanh một trăm phần trăm, nhưng vì sao thấy người niệm Phật hiện nay rất nhiều, nhưng người chân thật có thể vãng sanh thì lại rất là ít vậy? Đây là một vấn đề rất quan trọng , mổi một người niệm Phật phải nghiêm túc đối với việc này, nhất định không được xem thường !
Ngày nay chúng ta niệm Phật không cách gì vãng sanh, then chốt là ở “ không có Tín Nguyện, hoài nghi bất an, sợ chết, vốn không cầu vãng sanh”. Người niệm Phật ngày nay niệm Phật, chỉ là cầu bảo hộ, cầu tiền của, cầu công danh, cầu bình an, cầu thuận lợi, cầu tiêu tai, cầu khỏi nạn, cầu trị bệnh, cầu sống lâu, cầu tất cả lợi ích của thế gian, nhưng tuyệt đối lại không cầu vãng sanh Tây Phương!

Phản tỉnh - Hổ thẹn - Sám hối:
Pháp môn niệm Phật tệ hại đến nước này như ngày nay, thì mổi một đồng tu niệm Phật chúng ta phải nên thống thiết mà phản tỉnh, hổ thẹn mà sám hối. Chúng ta phụ rẩy sự chờ đợi nhớ mong của Phật A Di Đà đã nhiều kiếp! Cũng đã phụ lòng Thích Ca Mâu Ni Phật khẩn thiết dặn dò hết lời khuyên bảo! càng phụ lòng bi tâm kỳ vọng, khuyến tấn tán dương, chứng minh khen ngợi của mười phương tất cả chư Phật! Nghĩ đến chổ này, mổi một người niệm Phật phải nên thống thiết mà rơi lệ, không chổ dung thân!
Mỗi một vị dạy bảo người niệm Phật, cũng phải nên phản tỉnh: tại vì sao đem đại pháp Di Đà nương vào Phật lực, nhất định an tâm, tín nguyện niệm Phật, quyết định vãng sanh thành Phật, thì dạy thành dựa vào tự lực, hoài nghi bất an, không được nhất tâm, không cách gì vãng sanh ?
Mỗi một người học tập pháp môn niệm Phật cũng phải nên phản tỉnh: tại vì sao Tịnh Độ diệu pháp đầy đủ Tín Nguyện, nương vào Phật lực, quyết định vãng sanh, không sợ chết, thích được chết, muốn được đi sớm một chút, thì học thành hư tâm giả nguyện, hoài nghi tự ti, không dám gánh vác tiếp nhận, sợ chết, lo lắng phải chết, trong lòng không hề muốn được đi sớm một chút?

Chân tướng của người niệm Phật không được vãng sanh:
Ngay trong một ngàn người niệm Phật thì có hơn chín trăm chín mươi chín người giả niệm Phật , đây chính là chân tướng vì sao niệm Phật không thể vãng sanh. Thường ngày chúng ta niệm Phật, tâm miệng không đồng nhau, giả tín hư nguyện, trong tâm luôn quyến luyến vướng bận, tuyệt đối chẳng phải vì việc lớn sanh tử, mà chỉ là tất cả lợi ích thế gian; khi vừa đến cửa cải sanh tử, thì nhìn không thấu, buông bỏ không được, lo lắng đầu này, dính mắc đầu kia, nhưng tuyệt nhiên không cầu chết, tuyệt đối không hề cầu chết sớm một chút, để sớm ngày vãng sanh.
Cho nên, tuyệt đại đa số người niệm Phật đem của báo giá trị liên thành, chỉ để đổi thành một cục đường. Do đó niệm Phật chỉ thành phước báo trời người, tạo thành oan nghiệp cho đời thứ ba, mãi mãi ở trong luân hồi, chịu khổ không cùng. 

Văn khuyên niệm Phật

(Thiền sư Đạo Bái)

Nói về tình người, không ai chẳng chán khổ ưa vui, bỏ khổ lấy vui. Vậy mà hiện nay có nhiều sự khổ đau cùng cực, nhưng vẫn không biết chán nản rời bỏ; Lại biết có niềm vui tột bực mà chẳng biết ưa thích nhận lấy. Như thế không phải rất mê lầm hay sao?

Sự khổ đau cùng cực chính là nơi thế giới Ta bà này, sinh-già-bệnh-chết đủ mọi bức bách.

Niềm vui tột bực chính là thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà ở phương Tây, có đầy đủ Y báo, Chánh báo thanh tịnh trang nghiêm.

Bậc cao đức ngày xưa, vì thấy chúng sinh mãi mê lầm không thấu suốt nguyên nhân đau khổ và an vui, nên mới so sánh giữa Ta bà và Tịnh độ. Nói rằng:
* Ở cõi này loài người bẩm thọ thân hình máu thịt, có sinh là có khổ; cõi kia thì chúng hữu tình đều hóa sinh nơi hoa sen, không còn sự khổ về sinh.

* Ở cõi này thời tiết đổi dời, con người lần lần đi đến cảnh già yếu; cõi kia không có sự thay đổi nóng-lạnh, chúng sinh không bị khổ suy già.

* Ở cõi này con người mang thân hữu lậu dễ sinh nhiều bệnh hoạn, cõi kia thì chúng sinh thân thể phước báo thanh tịnh, không có sự khổ về đau yếu.

* Ở cõi này ít ai sống đến bảy mươi, cơn vô thường mau chóng; cõi kia thì chúng sinh mạng sống đến kiếp vô lượng vô biên, không có sự khổ về chết.

* Ở cõi này con người bị sợi dây thân tình, ái luyến ràng buộc, chịu nỗi đau khổ vì chia lìa; nơi cõi kia chúng sinh đều là quyến thuộc Bồ đề, nên không bị khổ về ân tình chia cách.

* Ở cõi này có nhiều sự ganh ghét oán thù, nên khi gặp gỡ tất phải chịu nhiều nỗi phiền não khổ đau; nơi cõi kia toàn bậc thiện nhân nên không có sự khổ về oan gia hội ngộ.

* Ở cõi này con người phần nhiều nghèo khổ thiếu kém, tham cầu không thấy đủ; nơi cõi kia, sự thọ dụng về ăn, mặc, ở, các thứ trân báu đều được hóa hiện tự nhiên.

* Ở cõi này con người hình thể xấu xa, các căn không đủ; cõi kia chúng sinh tướng hảo trang nghiêm, thân thể có ánh sáng xinh đẹp.

* Ở cõi này chúng sinh xoay vần trong vòng sinh-tử; nơi cõi kia bậc thượng thiện nhân đều chứng Vô sinh pháp nhẫn (lý thể chân như thật tướng xa lìa sinh diệt).
* Ở cõi này tu hành khó thành đạo quả. Nơi cõi kia mọi người tiến lên ngôi Bất thối chuyển dễ dàng.

* Ở cõi này nhiều gò nổng hang hố, rừng rậm chông gai, đầy dẫy các tướng nhơ ác; nơi cõi kia vàng ròng làm đất, cây báu vút trời, lầu chói trân châu, hoa khoe bốn sắc.

* Ở cõi này rừng Ta La Song Thọ đã khuất bóng đức Phật, hội Long Hoa của Bồ tát Di Lặc còn xa diệu vợi; nơi cõi kia, Di Đà Thế Tôn hiện đang thuyết pháp.

* Ở cõi này chỉ mến danh lành của Bồ tát Quan Âm, Thế Chí; nơi cõi kia, chúng sinh thường làm bạn với các Ngài.

* Ở cõi này bọn ma cùng ngoại đạo làm não loạn người tu hành chân chánh; nơi cõi kia, chỉ thuần là sự giáo hoá của Phật, tà ma không còn dấu vết.

* Ở cõi này tài sắc, âm thanh, danh lợi khiến người tu mê hoặc; nơi cõi kia có Y báo và Chánh báo thanh tịnh, hoàn toàn không có bóng người nữ.

* Ở cõi này ác thú, ma quái gào thét rùng rợn. Nơi cõi kia, chim, nước, cây rừng thường nói pháp mầu.

So sánh hai cõi, cảnh duyên hơn-kém nhau rất xa. Sự thù thắng của cõi Cực lạc thật không sao có thể kể hết!

Nay đã nói rõ đến như thế, vậy mà người đời vẫn mịt mờ, không biết ưa thích niềm vui Cực lạc, chán nản nỗi khổ ở Ta bà, bỏ đây về kia. Đó đều do tập khí hư vọng nhiều đời che đậy tự tâm, trí tuệ chẳng phát sinh, nên xét lý không sáng tỏ.

Than ôi! Người không lo xa ắt có buồn gần. Người đời đều biết có ngày sẽ chết, nhưng chẳng vì điều đó mà chọn lựa nơi tốt đẹp cho thân sau, thật là một lối đi rất sai lầm. Cho nên, Thế Tôn ra đời, dùng nhiều thứ phương tiện khuyên người niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ, đều là chỉ dạy mọi người một con đường đi.

Kinh A Di Đà nói:

"Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe nói về Phật A Di Đà bèn chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày hoặc hai ngày cho đến bảy ngày nhất tâm không loạn. Người ấy lúc sắp lâm chung, Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng hiện ra trước mắt.

Khi người ấy lâm chung, tâm không điên đảo liền được vãng sinh cõi nước Cực lạc của Phật A Di Đà".

Một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày dốc hết lòng niệm Phật, còn được vãng sinh. Thì huống chi một tháng, một năm, cho đến trọn đời dồn hết tâm sức để niệm Phật, chẳng lẽ không được vãng sinh hay sao?

Kinh Quán Vô Lượng Thọ còn nói:

"Nếu có chúng sinh tạo nghiệp bất thiện, năm tội nghịch, mười điều ác. Do nghiệp ác, nên phải đọa vào đường ác. Nếu có thể chí tâm niệm Phật không dứt tiếng, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Bởi xưng danh hiệu Phật, nên trong mỗi niệm mỗi niệm trừ được tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp. Lúc mạng chung thấy hoa sen vàng giống như mặt trời ở trước mặt, chỉ trong khoảnh khắc liền được vãng sinh Cực lạc".

Người tạo mười điều ác, chỉ trong khoảnh khắc niệm mười câu Phật, nương nguyện lực của Phật còn tiêu diệt tội lỗi được vãng sinh. Huống chi người có lòng tin chân chánh, niệm trăm câu, ngàn câu, muôn câu, cho đến niệm Phật nhiều vô số kể, mà không được tiêu diệt tội lỗi vãng sinh hay sao?

Thế nên, tôi khuyên tất cả người đời nên tranh thủ chút ít thời gian rảnh rỗi trong lúc bận rộn, mỗi ngày niệm Phật hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc muôn câu. Niệm xong rồi thì điền vào vòng tròn, hồi hướng Tịnh độ. Một năm đã mãn, sau đó tính chung lại xem niệm Phật được mấy muôn câu, ghi vào trong sổ, thọ trì suốt đời, dần dần tích lũy Tịnh nghiệp. Người ấy hiện tại được ánh sáng của Phật chiếu soi, tội diệt-phước tăng, về sau được ba vị Thánh ở Tây phương tiếp dẫn sinh về Tịnh độ.

Hạnh chân thật, nguyện chân thật, nhân chân thật, quả chân thật. Nếu chịu tin theo đây mới là người bạn pháp chân thật.

Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2010

Sự Mầu Nhiệm và Nét Đẹp Của Niệm Phật

Pháp môn niệm Phật, câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” họăc ngắn gọn hơn “A Di Đà Phật” đã hiện hữu với dân tộc Việt Nam hơn ngàn năm nay. Lúc tôi lên tám tuổi (1950), sống ở Hải Phòng, bà nội thường kể cho nghe Hội Chảy Chùa Hương lúc bà nội còn trẻ (thập niên 1920&1930). Lúc này đường đi còn khó khăn, đường lên Chùa núi dốc quanh co. Thế nhưng các cụ cứ chống gậy trúc mà miệng thì niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Theo lời bà kể lại thì chẳng mấy chốc mà leo tới nơi, chẳng mệt nhọc gì cả. Đòan người lên núi gặp đoàn người xuống núi, đòan người đi ra gặp đòan người đi vào. Khi gặp nhau ai nấy đều cất tiếng chào “A Di Đà Phật! ”. Câu niệm, câu chào âm vang cả một vùng núi non hùng vĩ, biến cuộc hành hương thành một hành trình vừa linh thiêng vừa nên thơ có lẽ độc đáo nhất trên thế giới. Hình ảnh này đã được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp ghi lại trong bài thơ Chùa Hương:

Mẹ bảo “ Đường còn lâu,

Cứ đi ta vừa cầu.

Quan Thế Âm Bồ Tát.

Là tha hồ đi mau.”

Trong đoàn người đi như nước chảy đó, giữa khói hương trầm nghi ngút, “Hương như là sao lạc”

cô gái15 tuổi – nhân vật chính của bài thơ Chùa Hương, theo cha mẹ đi chảy hội, vì còn e thẹn cho nên:

Thẹn thùng em không nói.

Nam Mô A Di Đà.

Lúc còn nhỏ thì không để ý. Nay lúc tuổi già, hồi tưởng lại tâm linh dân tộc, suy nghĩ lại câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “A Di Đà Phật” của dân mình mới thấy nó có một ý nghĩa linh thiêng và đẹp tuyệt vời. Nó không phải chỉ nằm trong phạm vi tôn giáo mà còn hòa nhập thành truyền thống văn hóa dân tộc. Nó trở thành phong cách sống hài hòa giữa đạo và đời. Khi đi chùa gặp nhau, hoặc trong các lễ hội Phật, chúng ta cất tiếng “A Di Đà Phật !” thì tiếng “A Di Đà Phật” trở thành một câu chào hỏi, một lời thân thiện, một lời mừng rỡ rằng ta còn có nhau, một lời chúc tụng, một sự kính trọng, một ước vọng sau này (khi vãng sinh) sẽ lại gặp nhau trên Quốc Độ Thanh Tịnh của Phật A Di Đà.

Đó là hình ảnh đẹp ngòai đời. Còn trong gia đình, mỗi tối chúng ta thấy bà nội, bà ngọai, mẹ ta ngồi lâm lâm lần chuỗi hạt niệm Phật. Các cụ niệm Phật để làm gì vậy? Đối với chư tăng ni, hoặc Phật tử tu tại gia chắc chắn ai cũng đã hiểu rõ mục đích của niệm Phật. Thế nhưng đối với thế hệ trẻ, người khác đạo có thể họ không hiểu ông/bà/cha mẹ hoặc chúng ta niệm Phật để làm gì? Hoặc giả nếu có hiểu thì cũng có thể hiểu sai cho nên chúng ta cần nói ra cho rõ. Chúng ta cần phân biệt đi chùa lễ Phật và niệm Phật là hai chuyện hòan toàn khác nhau. Đi lễ chùa có khi chỉ là hành vi hòan tòan tín ngưỡng, nhưng niệm Phật lại là hành vi huân tập, tu dưỡng bản thân. Ngòai ra chúng ta cần phải làm sáng tỏ cái Có và Không Có trong niệm Phật để cho thấy Đạo Phật không phải là Thần Giáo, chuyên cầu nguyện van vái để xin xỏ cái này cái kia, rồi trở thành tôi tớ cho Thần Linh.

Những Cái Không Có Trong Niệm Phật:

1) Niệm Phật không phải để cầu xin Phật ban cho một điều ước nào đó.

2) Niệm Phật không phải để tăng thêm sức mạnh, thêm can đảm để đối phó với kẻ thù. Cho nên trong Phật Giáo trải qua hơn 2500 năm, không hề có chuyện một đòan quân lâm trận dương cao biểu tượng hay hình Đức Phật để hăng máu, can đảm xông lên chém giết kẻ thù.

3) Niệm Phật không phải là để van xin Phật ban cho môt giải pháp để giải quyết một tình thế khó khăn.

4) Niệm Phật không phải để xin Phật ban bố phép mầu, vặn cổ kẻ thù giúp chúng ta.

5) Niệm Phật không phải là quỵ lụy khóc than, trở nên hèn kém đối với Phật.

6) Niệm Phật không phải xin Phật chỉ lối, đưa đường cho chúng ta buôn may, bán đắt.

7) Niệm Phật không phải để dông dài kể lể, tâm sự chuyện kín, chuyện riêng tư với Phật.

8) Niệm Phật không giống như cầu nguyện, van vái Thần Linh.

9) Niệm Phật không phải để trở nên đời đời kiếp kiếp làm tôi đòi cho Phật.

10) Niệm Phật nhất thiết không phải để quên đời.



Những Cái Có Trong Niệm Phật:

1) Niệm Phật để tâm hồn thanh thản.

2) Niệm Phật để an trụ tâm. Đang nóng nảy, niệm Phật lòng dịu hẳn xuống. Đang tức giận niệm Phật, lửa Sân từ từ hạ. Đang điên cuồng, niệm Phật tự nhiên bớt điên cuồng. Đang thù hận, niệm Phật hận thù hóa giải. Tham lam, niệm Phật bớt tham. Kẻ hung hăng, niệm Phật bớt hung hăng.

3) Niệm Phật để không cho niệm Ác nảy sinh. Nếu niệm Ác đã nảy sinh thì không cho nó phát triển. Do đó Chư Tổ nói rằng “Niệm Phật quên niệm Ma”. Khi niệm Phật thì tà ma, quỷ thần sẽ lánh xa.

4) Niệm Phật để giữ gìn Thân-Khẩu-Ý.

5) Niệm Phật là phương thuật giữ gìn Chánh Niệm.

6) Niệm Phật tới vô niệm chính là Thiền. Lúc đó sẽ không còn Chỗ Niệm (năng) và Người Niệm (sở), hành giả hiển lộ Phật tánh có sẵn trong con người mình và đi vào trạng thái Định.

7) Niệm Phật để nuôi dưỡng lòng Từ Bi.

8) Niệm Phật riết rồi trở thành Phật chứ không phải trở thành nô lệ hay tôi tớ cho Phật.

9) Niệm Phật cũng là phép điều hòa hơi thở cho nhẹ nhàng. Đi, đứng, nằm ngồi đều có thể niệm Phật. Cho nên niệm Phật cũng là phép trị liệu, bảo vệ sức khỏe.

10) Niệm Phật để giải trừ bớt Ác Nghiệp gây tạo trong quá khứ.

11) Niệm Phật để lúc lâm chung chẳng còn lo sợ. Chẳng cần phải nhờ ai cứu rỗi. Một mình thẳng tiến lên Thế Giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.

12) Càng niệm Phật đấu óc càng trong trắng, lòng dạ thảo ngay, tâm tính hiền từ.

13) Kẻ ác khẩu, nói năng hung dữ chuyên niệm Phật sẽ giải trừ được khẩu nghiệp. Niệm Phật khiến ta không vấp ngã trong lời nói. Một lời nói lầm lỡ có thể tiêu tan sự nghiệp.

14) Niệm Phật khiến lời nói dịu dàng, khiếm tốn do đó không gây thù chuốc oán, không bị “vạ miệng”.

15) Mặt mày hung dữ, niệm Phật trở nên hiền từ, dễ coi. Niệm Phật để chuyển nghiệp.

16) Niệm Phật khiến đi đứng dịu dàng, cử chỉ khoan thai.

17) Niệm Phật có thể ngăn chặn được cám dỗ điên cuồng.

18) Chán nản, thất vọng não nề, cùng đường không lối thoát muốn tự tử chết cho rồi, niệm Phật khiến tâm địa bình ổn từ đó mà tìm ra giải đáp hợp lý.

19) Lâm vào vòng lao lý, tù tội mỗi tối nên ngồi ở tư thế “bán già”, xoay mặt vào tường niệm Phật khoảng nửa tiếng đồng hồ, sẽ thấy tâm hồn thanh thản, thời gian ở tù qua nhanh, không phạm thêm tội lỗi, may mắn ân xá, giảm án sẽ tới. Nhờ niệm Phật mà sau khi ở tù ra lấy lại tự tin để xây dựng cuộc đời mới. Đây không phải là chuyện bịa đặt vì người viết bài này đã từng ở tù 9 năm. Những năm cuối cùng, tuyệt vọng, chán nản muốn tự tử chết, sau trở sang nghiên cứu Phật pháp, chuyên chú niệm Phật, kể cả tụng kinh và giờ đây dù bao gian khổ vẫn sống khơi khơi và sống đẹp.

20) Trong một đám đông hỗn lọan, đâm chém, phẫn nộ, cuồng điên, niệm Phật khiến ta bình tĩnh, không hăng máu lao vào chuyện thị phi, hoặc a tòng theo phe này phe kia, bênh-chống, khiến sau này hối không kịp. Tâm bình thế giới bình là như thế. Xin nhớ cho bình an là chân hạnh phúc.

21) Niệm Phật có thể trở thành Thánh Tăng. Cứ thử nhìn vào hình của Bồ Tát Thích Quảng Đức mà xem. Lúc nào trên tay ngài cũng có chuỗi hạt. Điều đó chứng tỏ ngài theo pháp môn Tịnh Độ tức tụng kinh, niệm Phật. Ai đã có lần gặp ngài phải ngạc nhiên, trong lúc ngồi hay đi, đứng, cả thân hình và khuôn mặt ngài ôn tĩnh như một pho tượng. Điều đó chứng tỏ ngài luôn luôn nhập Chánh Định, tức xác thân ngài ở đây nhưng thần thức ngài đã ở Quốc Độ tức ở Cõi Phật rồi. Chính vì thế mà vào năm 1963 để phản đối Ngô Triều đàn áp tôn giáo, ngài ngồi kiết già tại ngã tư Phan Đình Phùng –Lê Văn Duyệt, bật ngọn lửa để thiêu đốt thân hình, cả thân thể ngập trong biển lửa mà không hề lay động. Thế gới Phương Tây đã kinh hãi và kính phục gọi ngài là Bậc Đại Định. Đó là công năng của phép niệm Phật chứ ngài chẳng có phép mầu nhiệm của thần linh nào hết.

Tại sao niệm Phật lại có uy lực ghê gớm như vậy?

Niệm Phật phát xuất từ pháp môn Tịnh Độ mà pháp môn Tịnh Độ phát xuất từ bộ Kinh A Di Đà. Phật nói kinh này tại Thành Xá Vệ do tấm lòng thành của tỉ phú Cấp Cô Độc, dám trải vàng để mua vườn ngự uyển của Thái Tử Kỳ Đà làm đạo tràng cho Phật thuyết pháp. Trong pháp hội này Phật nói rằng Kinh A Di Đà còn có tên Nhất Thiết Chư Phật Hộ Niệm. Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy ngài Xá Lợi Phất:

“ Này Xá Lợi Phất, ý ông thế nào? Sao gọi kinh này là Nhất Thiết Chư Phật Hộ Niệm? Xá Lợi Phất, nếu có thiện nam hay thiện nữ, nghe kinh này rồi mà chịu nhớ lấy, cả những danh hiệu, chư Phật sáu phương nghe rồi nhớ lấy, thì thiện nam ấy, thiện nữ ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm và được tới cõi A Nậu Da La Tam Miệu Tam Bồ Đề chẳng hề thối chuyển.“ Lại nữa, “ Xá Lợi Phất ơi, Phật kia sáng láng vô cùng, vô lượng, soi khắp các nước suốt cả mười phương, không đâu chướng ngại, vì thế nên gọi A Di Đà.” (1)

Chính vì thế mà khi chúng ta cất tiếng niệm “ Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “A Di Đà Phật” thì chư Phật sáu phương cùng hoan hỉ và hết lòng trợ lực. Hơn thế nữa, vì hào quang của A Di Đà Phật chiếu xuyên suốt không chướng ngại cho nên, dù ở đâu, khi chúng ta niệm danh hiệu ngài thì Phật A Di Đà cũng sẽ hộ trì cho chúng ta đạt mục đích và không thóai chuyển.

Còn trong pháp hội ở Núi Kỳ Xà Quật, ông trưởng giả Diệu Nguyệt cũng là Phật tử tại gia (Ưu Bà Di) của Phật, từ trong đại chúng đứng lên khẩn thiết thưa thỉnh Phật như sau:

“Như Đức Thế Tôn từng chỉ dạy, đời mạt pháp các chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề cang cường, ngỗ nghịch, tâm tạp, nghiệp nặng, mê đắm ngũ dục, không biết hiếu thuận cha mẹ, không biết cung kính sư trưởng, không thực lòng qui y Tam Bảo, thiếu năng lực thọ trì năm giới cấm, làm đủ mọi chuyện tệ ác, phỉ báng thánh nhân v.v.. Cho nên con suy gẫm như thế này, phải có một môn tu thật đơn giản, thật tiện lợi nhất, dễ dàng nhất để tất cả những chúng sanh kia khỏi đọa vào các đường ác, chấm dứt luân chuyển sanh tử trong ba cõi, được thọ dụng pháp lạc (pháp vui), sớm bước lên địa vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.” Sau lời thưa thỉnh tiếp theo của Quốc Mẫu – Hoàng Thái Hậu Vi Đề Hi, Đức Phật đã dạy như sau:

“Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp niệm Phật. Này Diệu Nguyệt cư sĩ, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, đủ lòng tin, thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền chiêu cảm được y báo và chánh báo của Phật A-Di-Đà ở cõi Cưc Lạc.” Và Đức Phật nhấn mạnh thêm “ Đây là môn tu Đại Oai Lực, Đại Phứơc Đức.” (2) Ngay các bậc thượng thủ như Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền cũng đều niệm Phật. Còn thiền sư Bách Trượng (720-814) cũng phải nhận định rằng “Tu hành, dùng pháp môn niệm Phật là vững vàng nhất.” (3)

Những oai lực và phước đức của phép niệm Phật nói ở trên thuộc về mặt kinh điển và tín niệm. Còn về phương diện lý giải khoa học. Khi chúng ta chí tâm, chí thành, chí thánh niệm Phật thì chúng ta sẽ phát huy hết năng lực của trí tuệ, tâm đại bi, sự dũng mãnh của chính chúng ta (Bi-Trí-Dũng). Đạt tới trạng thái này rồi thì ung dung tự tại, không còn lo sợ gì nữa (Vô hữu khủng bố) giống như sự “hành thâm” thực chứng Bát Nhã Ba-la-mật Đa Tâm Kinh của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Đó cũng là trạng thái Vô Ngại và Tự Tại của Chư Phật ẩn dụ chư Phật ngồi tòa sư tử.



Do những kết quả tốt lành nói trên mà chúng ta:

- Buổi tối nên niệm Phật.

- Trước khi đi ngủ nên niệm Phật cho đến khi nào đầu óc thanh thản để từ từ đi vào giấc ngủ.

- Sáng thức dậy nên niệm Phật, dù vài câu, bởi vì sau giấc ngủ dài đầu óc con người thường hôn trầm. Niệm Phật vào đầu sớm mai cũng là dấu hiệu bắt đầu một ngày mới tốt lành.

- Khi nào thấy buồn chán nên niệm Phật.

- Thấy mất tự tin nên niệm Phật.

- Thấy long xao xuyến nên niệm Phật.

- Thấy có thể bị cám dỗ nên niệm Phật.

- Thấy thời gian kéo dài, vô vị nên niệm Phật.

- Gặp rắc rối về pháp lý nên niệm Phật để bình tĩnh ứng phó.

- Bị ai chọc giận, công kích nên niệm Phật.

- Tại đám đông tụ họp, ăn nhậu, vui chơi, thấy người ta nói chuyện “vô duyên”, tào lao, nhảm nhí mất thì giờ, nên niệm Phật để không giây dưa vào chuyện vô ích

- Các em khi vào thi, nên niệm Phật để đầu óc thanh thản, bình tĩnh. Thiếu bình tĩnh, quá lo âu, xao xuyến đưa đến việc không đọc kỹ câu hỏi, đề tài, tính tóan sai, lạc đề v.v..

- Đêm khuya thanh vắng một mình trên tàu, xe, trên sông nước nên niệm Phật.

- Khi bệnh tật, đau ốm nằm nhà thương nên niệm Phật để không mất tinh thần, không sợ chết. Càng rên la, càng mất tinh thần, càng chết sớm, càng làm khổ gia đình.

- Nếu niệm Phật cùng lúc lại quán sổ tức (theo dõi hơi thở) thì công năng rất lớn chẳng khác gì thiền định vậy.

Kết Luận:

Niệm Phật miễn phí, không phải trả tiền ( free) mà cũng không bị đóng thuế, đem lại tốt lành cho đời tại sao chúng ta không thử xem? (why not?). Xin quý vị, quý bạn mạnh dạn thực hành. Nếu thấy chẳng công hiệu gì cả thì bỏ đi cũng chẳng mất mát gì. Đức Phật cũng chẳng phiền trách hay trừng phạt bạn. Cuối cùng, xin thưa rằng như chúng ta đây- những con người gọi là trần tục, sống, thở hít không khí, gia đình đầy đủ và hưởng tất cả những lạc thú của kiếp người mà vẫn cảm thấy lo âu, xao xuyến, bất an và lo sợ ngày mai. Trong khi đó, hằng vài trăm ngàn, có khi hằng triệu tăng/ni trên khắp thế giới, sống đời âm thầm, đơn sơ, đạm bạc, không gia đinh, không của cải, không danh vọng, không quyền thế, không lạc thú trần gian như chúng ta…thế mà các vị lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, cử chỉ dịu dàng, giới hạnh trang nghiêm, miệt mài đi tới mục đích cuối cùng: Giải thóat cho chính mình và cứu độ chúng sinh. Tại sao những vị này có thể “hy sinh” và sống đời cao thượng đến như thế? Các ngài có gì bí mật chăng? Xin thưa qúy ngài chẳng có lọai “vũ khí” bí mật nào cả. Các ngài cũng chẳng có phép mầu hoặc sự che chở của bất cứ thần linh mầu nhiệm nào cả. Hành trang duy nhất mà các ngài mang theo là giáo lý của Đức Phật và phương tiện tiến tu là Thiền Định hoặc Tụng Kinh, Niệm Phật…điều mà tôi và quý bạn đã thấy rõ như ban ngày.

Không còn bàn cãi gì nữa. Tụng kinh niệm Phật công năng ghê gớm và lợi lạc có thể nhìn thấy. Còn như chuyện tu hành như thế nào, hành trì như thế nào, giới luật như thế nào, phát nguyện lớn như thế nào mà có thể đắc đạo, ngồi yên trong biển lửa, cắt xẻ thân thể mà không kêu than như Đức Phật thường nói trong nhiều bộ kinh…thì hàng sơ cơ, thô thiển như tôi hòan tòan không biết. Không biết mà nói bừa sẽ mang tội vọng ngữ. Để nghiên cứu thấu đáo hơn về uy lực của Pháp Môn Niệm Phật, quý vị, quý bạn có thể tham khảo: Cuốn sách nhỏ nhan đề Nam Mô A-Di-Đà Phật: Tông Chỉ Pháp Môn Tịnh Độ của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh biên sọan năm 1956. Cuốn Niệm Phật Thập Yếu của Hòa Thượng Thích Thiện Tâm biên sọan hết sức công phu và cuốn Kinh Niệm Phật Ba-la-mật cũng do Hòa Thượng Thích Thiền Tâm dịch ra Việt Ngữ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2001. Một Đời Vãng Sanh, Chấm Dứt Luân Hồi của HT. Tịnh Không xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2010. Kính chúc quý vị, quý bạn thành công. Thành công ở đây có nghĩa là An Vui và Tự Tại - một giá trị tinh thần to lớn không gì đối sánh được trên thế gian này.



Đào Văn Bình

(Tháng 8 năm 2554.PL – 2010.TL)



(1) A Di Đà Kinh Yếu Giải của Hòa Thượng Tuệ Nhuận.

(2) Kinh Niệm Phật Ba-la-mật.

(3) Một Đời Vãng Sanh Chấm Dứt Luân Hồi

Thứ Tư, 28 tháng 7, 2010

Chí tâm niệm Phật Tịnh độ hiện tiền


Đã lâu lắm rồi, từ cái ngày  thơ ấu xa xôi khi con được   mẹ dắt lên chùa, theo thời gian, tất cả mọi thứ đều như cứ trôi đi, duy chỉ có câu niệm danh hiệu Phật A Di Đà trầm bổng du dương còn đọng lại. Con thích niệm thầm danh hiệu Phật từ thuở ấy, âm thầm chẳng cho mẹ biết và cũng chẳng hiểu tại sao.
Khi lớn lên, cũng như bao người trẻ khác, con bị cuốn vào cuộc sống hối hả với bao thăng trầm, lợi danh, vinh nhục. Nhưng câu niệm Phật thì con vẫn âm thầm mang theo như một hành trang vô hình, trì niệm trong những lúc có thể, và rồi Sáu chữ Hồng danh trở nên thân thiết như một người bạn cố tri. Khi vui cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như khi thất bại, lúc cô đơn cũng như khi hạnh phúc, niệm Hồng danh Phật liền thấy lòng ấm lại, hết chơi vơi, bình tĩnh và thanh thản hơn rất nhiều. Sau này học giáo lý Tịnh độ, con mới biết mình có căn lành với pháp môn niệm Phật thâm diệu này.
Càng niệm Phật, con nhận ra tình thương của Phật A Di Đà thật bao la, vô hạn. Hình ảnh Phật A Di Đà đứng trên tòa sen sáng lòa, duỗi cánh tay vàng tiếp độ luôn hiện ra trước mắt mỗi khi con niệm danh hiệu Ngài. Ngài thật cao cả và nhân từ, như một người cha, người thầy luôn soi sáng cho cuộc đời con. Với con, Phật A Di Đà không chỉ ở Tây phương mà ở ngay trong cõi Ta bà này. Ngài không chỉ cứu vớt những thần thức đọa lạc, tiếp dẫn họ vãng sanh mà còn luôn an ủi, soi sáng và thức tỉnh cho con cùng biết bao nhiêu người khác.
Giờ đây, con tin tưởng tuyệt đối vào Phật A Di Đà, cảnh giới Cực lạc thù thắng với vô vàn cảnh đẹp, thanh tịnh và trang nghiêm. Con luôn nguyện được sanh về Tịnh độ nên cố gắng xây dựng nền móng Tịnh độ trong cuộc sống hàng ngày. Sống với niềm tin trọn vẹn vào Phật A Di Đà, con cảm nhận sâu sắc năng lực cứu độ vô biên của Ngài. Chỉ một câu niệm Phật thôi, mà con hằng được soi sáng, chỉ dẫn và có nơi nương tựa. Cho đến một ngày, con nhận ra rằng “Tâm tịnh tức độ tịnh” hay nói cách khác “Đây là Tịnh độ/Tịnh độ là đây”.
Đúng là Tịnh độ ở Tây phương nhưng Tịnh độ cũng ở ngay đây và bây giờ khi tâm con bình an, vắng lặng và thăng hoa trong âm ba vang vọng điệp trùng Nam mô A Di Đà Phật. Sự đời thì vẫn cứ như nhiên, trôi đi với bao buồn vui thăng trầm nghiệt ngã. Con cũng đang xuôi trong dòng sông đời đó thôi nhưng sao tâm con bình an đến lạ, có thể vì con đã nắm được chiếc phao Thánh hiệu A Di Đà.
Cuộc đời con, rồi đây sẽ có những cái được thêm lên và cũng có nhiều thứ sẽ mất đi nhưng chắc chắn rằng câu niệm Phật thì luôn đọng lại, không thêm bớt. Tuy chưa được “Nhất tâm bất loạn” nhưng con nguyện hằng tâm niệm Thánh hiệu A Di Đà. Mỗi câu niệm Phật là một đóa sen, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Luôn tưới tẩm và thắp sáng những đóa sen Thánh hiệu Phật ngay trong cuộc sống này, thì rõ ràng Cửu phẩm Liên hoa cũng chẳng ở đâu xa.
BẠCH VÂN
Nguồn http://www.giacngo.vn