Thứ Tư, 28 tháng 7, 2010

Lắng nghe tiếng hát sông Hằng (1)

Bác sĩ Quách Huệ Trân
Trích từ: http://www.buddhanet.com.tw/dawjam/dm015.htm

Lời giới thiệu.
Bác sĩ Quách Huệ Trân là một bác sĩ chuyên khoa ung thư, bà rất nhiệt thành và tận tâm trong công việc.  Lòng từ bi và thuần thành của bà không những đã đem lại sự khích lệ to lớn cho bịnh nhân mà còn cảnh giác những người khỏe mạnh, làm cho nhiều người phát tâm học Phật và niệm Phật.  Sau đây là bài nói chuyện với các bạn học ở Huệ Trí Phật Học Xã của Ðại học Trung Nguyên, nội dung rất phong phú cảm động.  Tuy là đang bị bịnh ung thư trầm trọng, bác sĩ Trân vẫn rán chịu đau và dùng lòng tín nguyện niệm Phật vô cùng kiên cố của mình lên giảng đài thuyết pháp; khi tuyên bố bị bịnh bà nói: ‘Bây giờ vừa đúng lúc để tôi nhất tâm niệm Phật và chuẩn bị vãng sanh’  (Sau lần nói chuyện này bác sĩ Trân từ chức và lên núi đi xuất gia).
Trong cuộc sống trầm luân khổ hải này, chúng ta không chịu buông xả và tham luyến tất cả những gì ‘của mình’; ai cũng đầu tắt mặt tối, bận rộn suốt cuộc đời, đến phút cuối cùng nhìn lại [chỉ là một con số không to lớn] rồi âu sầu than thở.   Thưa quý vị, quý vị muốn cuộc đời của mình như thế nào?  Làm sao để vượt ra khỏi sự trói buộc của luân hồi sanh tử?  Chúng tôi hy vọng bài này sẽ đem nhiều tư duy và chất liệu có thể giúp quý vị tìm ra phương hướng [về quê hương] của mình!

Kính thưa quý thầy cô, kính thưa quý bạn:
Khi lên giảng đài này, tôi cảm thấy rất bối rối và xấu hổ khi nhìn thấy phía dưới phần đông đều là những người trong hàng tiền bối, bậc thầy cô của mình.  Trước  hết xin giải thích tại sao một người mạt học dở ẹt như tôi cũng lên giảng đài nói chuyện với quý vị?  Ðây là do ảnh hưởng của một bịnh nhân cho nên tôi thường kể lại câu chuyện của bịnh nhân này và nói lên lý do người này đã giúp cho tôi hiểu được nhiều vấn đề.  Chúng ta thường phải trả một giá rất đắt mới có thể hiểu được một câu nói trong kinh, nhiều khi chỉ một câu kinh thật đơn giản.  Cô này mới có ba mươi mấy tuổi thì bị ung thư ruột già.  Khi cô đến bịnh viện cứ khóc hoài không thôi.  Lúc đó tôi mới làm bác sĩ tập sự   thuộc khoa ung thư, xem bịnh lý mới biết cô đã mổ qua hai lần nhưng ung thư vẫn tái phát trở lại, đúng là vô phương cứu chữa.  Cô khóc hoài nên nói không ra tiếng nữa, thiệt là không biết làm sao, muốn tìm bác sĩ để hỏi rõ bịnh trạng của mình.  Hôm đó tôi hết ca trực liền đến phòng bịnh để thăm cô và cũng nhân tiện giới thiệu sơ lược một ít Phật pháp cho cô biết.  Không ngờ cô nghe xong, xúc động, mở mắt thật to, nói: “Tại sao bấy lâu nay không có ai nói cho tôi biết về những chuyện này?  Tại sao tôi đã sống ba mươi mấy năm đầy phiền não và đến lúc sắp lìa đời tôi mới được nghe Phật pháp?”.  Tuy là chỉ có mấy câu nói thật ngắn nhưng hình như đã xoi thủng tim tôi.  Sau đó cô bật khóc và làm tôi cũng khóc theo, khóc một cách rất bức rức.  Lúc bấy giờ Tuyết Công lão ân sư (lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam) còn tại thế và giảng kinh vào ngày thứ tư mỗi tuần.  Mỗi ngày khi làm xong việc tôi thường ở lại bịnh viện để nói chuyện và an ủi bịnh nhân, ngoại trừ ngày thứ tư vì phải đi nghe Tuyết Công giảng kinh.  Cô thấy mỗi thứ tư tôi đều rất vui chuẩn bị đi nghe giảng nên nói: “Tôi cũng hy vọng có thể đi theo (nghe giảng) nhưng rất tiếc không có cơ hội”.  Tôi đáp: “Trong tương lai cô cũng sẽ có dịp đi được”.  Cuối cùng cô cũng đã được đi nghe kinh, lúc đến giảng đường Hoa Nghiêm ở thư viện Từ Quang tôi thấy cô ngồi ở vài hàng ghế phía trước.  Nhưng đến nửa buổi giảng cô vừa ôm bụng vừa khóc và đi về, bịnh tình của cô biến chứng nặng nên cô đau quá không thể tiếp tục nghe kinh.  Lúc đó tôi chợt hiểu được một câu trong bài khai kinh kệ:
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp. 
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ. 
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì. 
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa’. 
Vì ảnh hưởng của cô nên từ hôm đó trở đi tôi không ngại sự hiểu biết còn thô thiển của mình, luôn luôn cố gắng, tích cực hơn, và muốn mau mau giới thiệu cho mọi người những điều trọng yếu trong Phật pháp [mà mình hiểu được], nói cho đại chúng biết những sự hạnh phúc mà Phật pháp có thể đem lại cho mọi người.  Hạnh phúc này tiền tài mua không được, kẻ ăn trộm cũng không thể lấy mất.  Trong bất cứ trường hợp và cảnh giới nào và không kể người ta dùng quan niệm ‘phước’ hay ‘họa’ trong thế gian để đo lường những cảm nhận hạnh phúc này, trong nội tâm của chúng ta đều luôn luôn đầy đủ sự an tịnh, hạnh phúc, và tươi sáng.
Tôi hỏi các vị đạo hữu ở Phật học xã nghiên cứu đề mục hay kinh điển gì trong khóa học này, bác Hứa trả lời là đang thảo luận ‘Kinh Bát Ðại Nhân Giác’.  Chắc ai cũng đã xem qua kinh này và có thể đã học thuộc lòng rồi.  Ðiều giác ngộ thứ nhất là:
Thế gian vô thường, quốc độ mong manh, tứ đại khổ không, năm ấm vô ngã, sanh diệt đổi dời, hư ngụy không chủ…’. 
Tuy là biết thuộc lòng nhưng phần đông chúng ta không tin như vậy.  Tuy Phật nói thế gian là khổ, là vô thường, nhưng bạn lại cảm thấy nhân gian rất vui sướng!  Mỗi sáng thức dậy ăn bánh uống cà phê, …, ngước mắt nhìn lên, ôi chao trời trong mây trắng, đời sao mà sung sướng thế!  Nếu được vậy thì cũng thường thôi, nhưng những lúc như vậy trôi qua rất nhanh.  Giả sử một lúc nào đó, chuyện khó khăn thử thách thình lình xảy ra, khi đó bạn sẽ không thấy trời trong mây trắng, không thấy trăm hoa đua nở, trong lòng của bạn sẽ không còn cảm thấy vui sướng nữa.  Ở đây tôi xin kể một vài câu chuyện thật mà tôi đã gặp khi làm việc ở bịnh viện.  Trong những câu chuyện này, mỗi bịnh nhân đều là giáo sư của tôi, mỗi người đều kể cho tôi một đạo lý mà đức Phật đã nói trong kinh điển, họ ấn chứng (chứng minh) những điều Phật dạy, họ làm cho tôi hết lòng tin tưởng lời Phật nói và tin đức Phật là ‘người nói lời chân thật, không bao giờ nói dối’.
Có nhiều bịnh nhân hỏi tôi: “Bác sĩ năm nay bao nhiêu tuổi?”. 
Tôi trả lời: “Ba mươi hai tuổi”. 
Lại hỏi: “Bác sĩ lập gia đình chưa?  Tôi làm mai cho”. 
Tôi liền hỏi họ: “Cuộc sống của bà rất sung sướng phải không?” 
Thật kỳ lạ không có một người nào đáp là ‘phải’ hết!  Cho đến một hôm tôi gặp một bịnh nhân bị ung thư cổ tử cung, mỗi lần đến khám bịnh đều trang điểm thiệt là đẹp, thoa môi son thiệt đỏ, móng tay chân đều có sơn màu rất đẹp.  Khám bịnh xong bà muốn làm mai cho tôi.  Bà nói:
“Cháu tôi làm việc ở bịnh viện Quốc Thái, người rất lịch sự đàng hoàng”.
Tôi hỏi bà: “Bà thiệt là rất sung sướng phải không?” 
Bà nói: “Phải, chồng tôi đối xử rất tốt; con cái rất có hiếu, nhà cửa rất sung túc”. 
Như vậy thật là sung sướng, xin chúc mừng cho bà.  Bà là người duy nhất nói mình có hạnh phúc, thiệt là mừng giùm bà.  Tại vì khi bịnh nhân bước chân vào bịnh viện thì thường khóc và than:
“Bác sĩ không biết đâu, tôi phải mượn tiền của người ta để lại đây khám bịnh, con cái không vui chút nào”;
Hoặc là: “Ôi chao lúc về nhà không ai đếm xỉa tới; mang bịnh lâu quá rồi người ta không chịu chăm sóc nữa”. 
Cũng không ai thăm hỏi: “Thưa ba ăn cơm chưa?”. 
Hoặc là: “Từ lúc tôi mắc bịnh này, chồng tôi bỏ đi luôn”. 
Phần lớn là thuộc vào loại này, tình tiết không giống nhau nhưng nội dung hoàn toàn tương tợ; chỉ có bà này thiệt là may mắn có được hạnh phúc.  Nhưng qua một thời gian ngắn sau đó, y tá coi báo ngạc nhiên nói bà đó đã tự tử.  Cô y tá nói: “Trong báo đăng tin bà được vớt lên từ bờ sông ở ….Bà bỏ nhà ra đi hết năm ngày, sau đó thì tự tử”. 
Tôi hỏi:  “Bà đó rất sung sướng, rất hạnh phúc, sao lại tự tử?”. 
Thưa quý vị, chúng ta thử nghĩ xem tại sao lúc đó niềm thương yêu của chồng không thay đổi được tâm niệm muốn tự tử của bà?  Tại sao sự hiếu thảo của con cái cũng không kéo bà lại được?  Tại sao tiền bạc không mua được sự an ổn của tinh thần?  Chồng thương yêu cho mấy và con cái hiếu thảo đến đâu cũng không thay thế được sự đau đớn trên thân thể của bà.  Một người đàn bà xinh đẹp như thế tại sao lại phải trốn khỏi nhà đi lang thang rồi cuối cùng phải nhảy vào dòng nước đen tối?  Có lẽ vì trước đó bà cảm thấy cuộc đời quá xinh đẹp, chưa nếm qua mùi vị của sự khổ, bà chưa biết qua: ‘thế gian vô thường, quốc độ mong manh’, cho nên trong tâm không có chuẩn bị tâm lý, gặp chuyện thử thách trong đời chịu không nổi, không có ‘chích ngừa’ để phòng bị, không có khả năng đề kháng, chịu đựng khổ không được nên mới tự tử.  Tôi rất hối hận trước đó không giới thiệu Phật pháp để cho bà thay đổi quan niệm và hướng về quang minh, hướng về Di Ðà.  Những sự khổ này có lẽ mọi người sẽ nghĩ: ‘Ðó chỉ là thiểu số, người tự tử rất ít’.  Thiệt ra người tự tử rất nhiều, tôi làm việc trong khoa ung thư, nếu có ngày nào không gặp bịnh nhân muốn tự tử thì ngày đó phải được kể là ngày rất tốt, rất hiếm!  Thiệt đó, mỗi ngày tôi thường nghe câu: ‘Tôi nên chết sớm thì tốt hơn’.  Khi người ta cầu mong khỏe mạnh và sự quan tâm chăm sóc mà không được toại nguyện thì thường thường sẽ tự sát.  Ban đêm trong bịnh viện tôi thường phải đi giải quyết những chuyện tự tử này.  Không phải là họ cố ý không muốn sống nhưng bị bịnh đau khổ quá nên không biết cách nào để chịu đựng nữa.
Ngoài ra còn có người cầu sanh không được cầu chết cũng không xong, nằm trên giường bệnh rên siết.  Có một người bịnh nguyên phần phía dưới bụng bị ung thư lở loét ra hết, bác sĩ phải mổ và làm một cái hậu môn tạm trên bụng, nhưng không cách nào trị lành được.  Chất bài tiết trong ruột rỉ thẳng ra.  Phòng của người này ở lầu ba, từ lầu hai đã nghe mùi hôi bay đến.  Không phải người này có gì đặc biệt nhưng bất cứ ai trong chúng ta khi gặp phải trường hợp này đều như vậy.  Khi con bà săn sóc cho mẹ bất đắc dĩ phải dùng một miếng vải để bịt miệng và mũi lại.  Mỗi ngày bà đều muốn tự tử nhưng chưa gặp cơ hội.  Một hôm nhân dịp con bà đi ra chợ mua đồ ăn sáng, bà rán hết sức mình ngồi dậy, leo qua cửa sổ từ lầu ba của bịnh viện nhảy xuống.  Vừa đúng lúc đó người con về đến, nhìn thấy mau mau chạy tới để đỡ bà.  Kết cục bà nhảy xuống không chết mà còn bị thương.  Vốn là đã quá đau khổ bây giờ còn bị thương thêm, mỗi ngày đau đớn không thể nào diễn tả được, cầu sanh không được, cầu tử cũng không xong; mạng chưa hết tự tử cũng không chết.  Cho dù tự tử chết đi rồi, vĩnh viễn trầm luân trong lục đạo luân hồi, sự khổ não vô tận lại tái diễn trở lại!
Nhà thơ Rabindranath Tagore có nói:
Sanh thời lệ tợ hạ hoa, tử thời mỹ như thu nguyệt’
(Lúc sống đẹp như hoa mùa hạ, lúc chết đẹp như trăng mùa thu). 
Bạn muốn sống đẹp như hoa mùa hạ có lẽ cũng không khó lắm; nhưng muốn chết đẹp như trăng mùa thu thì phải ra sức chuẩn bị công phu mới được!  Lắm lúc có nhiều người phê bình những người học theo Phật và nói: “Ôi chao, sao quý vị ưa nói chuyện ‘chết’, ưa nói chuyện ‘lâm chung’ quá, hình như đã xem thường cả cuộc đời.  Trong cuộc sống có rất nhiều chuyện phải làm, đặc biệt là những người tu theo Tịnh độ như quý vị, ngày ngày cứ niệm ‘A Di Ðà Phật’, chuẩn bị để vãng sanh Tây phương, thật là quá tiêu cực”.  Thật ra cuộc sống chúng ta giống như quá trình vẽ một con rồng, mỗi nét vẽ mỗi màu sắc đều rất quan trọng.  Lúc lâm chung cũng như nét vẽ cuối cùng vào mắt rồng.  Lúc sanh lúc tử đều rất quan trọng, không có nét vẽ nào có thể cẩu thả được.  Niệm Phật là tâm niệm tối thiện nhất, tích cực làm cho lúc sống và lúc chết đều là chí thiện chí mỹ (tốt đẹp nhất). 
Nói chuyện từ nãy đến giờ nhưng chưa nói vào đề tài chính hôm nay: ‘Lắng nghe bài ca bên sông Hằng’.  Mấy năm trước tôi có dịp đi qua Ấn độ và ngồi thuyền đi dọc theo bờ sông Hằng.  Lúc đó trong lòng tôi rất an tịnh; âm thanh trên sông cứ cuồn cuộn nổi dậy làm tôi có cảm giác như là đang đi trong dòng nước ‘sanh tử’….  Khi lắng tai nghe những âm thanh này tôi nghe thấy trong đó có âm thanh của trẻ con, của người lớn, có tiếng khóc, có tiếng cười vui. …Tất cả những âm thanh này trộn lẫn vào nhau biến thành một câu vạn đức hồng danh: ‘A Di Ðà Phật’.  Bạn hãy nhìn hình ảnh của sông Hằng, của từng làn sóng nhấp nhô, hình bóng của chính bạn, của người thân, bạn bè, mặt trời lặn, con chim và làn mây đang bay lơ lửng ở cuối chân trời, tất cả những hình bóng này hòa hợp lẫn nhau làm thành con sông ‘sanh mạng’.  Chúng ta hãy cùng nhau xem những hình ảnh và lắng nghe bài ca bên sông Hằng này, từ bài ca ‘luân hồi sanh tử của sông Hằng’ cho đến bài ca ‘đức Phật giác ngộ’.  Ðối với chúng ta sông Hằng là một con sông rất quen thuộc vì trong kinh đức Phật thường dùng danh từ  ‘cát sông Hằng’ để hình dung ý nghĩa ‘vô lượng vô biên’.  Trong con ‘sông Hằng’ sanh mạng này chúng ta đều là những người bơi lội qua sông….
Con thuyền cứ tiếp tục tiến tới và đi ngang một chỗ dùng để hỏa táng ở bờ sông.  Phong tục mai táng người chết của Ấn độ rất đơn giản, họ không cần quan tài chỉ dùng vải bao bọc thi thể lại rồi đem thiêu ở bờ sông, cho đến bà Gandhi cũng không ngoại lệ (bà được dùng lá quốc kỳ để bao).  Người giàu thì có đủ củi lửa nên có thể thiêu thành tro rồi đem bỏ xuống sông.  Người nghèo thì thiêu qua loa một chút rồi đem thi thể bỏ xuống sông.  Lúc tôi ngồi thuyền đi ngang một chỗ thiêu người chết này, dưới đống tro tàn còn thấy được một cái chân đen kịt thiêu chưa thành tro.  Chúng ta thử hỏi cái chân thiêu nửa chừng này là của ai?  Không lâu trước đó nó cũng có làn da rất mềm mại và được ôm ấp trong lòng mẹ.  Có lúc nào đó cái chân này đang rảo bước trên bải cỏ xanh mướt, cũng có thể là có rất nhiều thanh niên muốn thân cận nó.  Rồi theo thời gian trôi qua nó bắt đầu chai cứng và khô khốc khi người chủ của nó già đi.  Rốt cục rồi nó biến thành một cái chân thiêu nửa chừng, đen kịt, nằm dưới đống tro tàn.  Sau một thời gian nữa thì nó sẽ biến thành một đống cát trong sông Hằng.  Thêm một lần nữa chúng ta hãy nhìn kỹ hình ảnh và lắng nghe bài ca bên sông Hằng.  Những hình ảnh này của người Ấn độ mà cũng có thể là của chúng ta nữa!
Có một ông thường ngày rất thích ăn trầu, hút thuốc, uống rượu rồi sau này bị ung thư trong miệng.  Khi đến bịnh viện khám thì chỗ bị ung thư đã lan rộng ra, lở loét đến quai hàm và gò má lủng lỗ.  Chỗ lở cứ chảy nước vàng ra hoài, khi ông ăn uống thì thức ăn đều lọt ra ngoài.  Cho dù ông uống rượu ngon trước đó ông thích nhất cũng rất đau, khi ăn trầu vào cũng đau như ‘nuốt viên sắt nóng’.  Thân thể cường tráng của ông dần dần tiều tụy vì ăn uống không được; chúng tôi phải đút một ống dẫn đồ ăn từ mũi vô đến bao tử.  Vợ ông rất hối hận và nói lúc trước hai vợ chồng họ cứ cãi lộn hoài.  Bà kể lại: “Ðược rồi, ông chửi tôi ông sẽ bị ung thư miệng, tôi trù cho ông bị ung thư miệng.  Ai ngờ rằng ổng bị ung thư miệng thật, người khổ nhất lại là tôi; ngoài việc phải chăm sóc vết thương cho ổng, đi khắp nơi kiếm bác sĩ trị cho ổng, còn phải lo kiếm tiền để trang trải…thiệt là khổ không cách nào diễn tả được”.  Nếu bà biết trước được cảnh khổ bây giờ thì sẽ trân trọng những lúc còn khỏe mạnh và còn nói: “Lúc ổng chửi tôi, tôi thà đi lạy Phật một trăm lạy chúc phúc cho ổng, mời ổng ăn đồ ngon, tôi cũng không dùng lời ác độc để trù ổng”. 
Hai người cùng nhau niệm Phật trong ánh sáng từ bi trí tuệ của đức Phật thì không tốt hơn là cãi lộn hay sao?  Rất tiếc là chúng ta thường chọn lấy những phương thức đối xử để gây đau khổ lẫn nhau; lúc chưa bịnh thì mặc sức hành hạ thân thể này, đến lúc mang bịnh rồi thì lại than trời than đất.  Hy vọng là chúng ta trong những nhân duyên tương ngộ rất ngắn ngủi này, hãy dùng tâm từ bi chân thành đối đãi với nhau; sự giận tức oán hờn chỉ giúp tạo ra con đường đầy chông gai đau khổ ở phía trước.  Ông rất thích đi câu cá; lúc tay mang trầu, rượu, và cần câu đi ra bờ sông thì ông cảm thấy rất thích thú.  Nhưng đến khi bị ung thư loét hết miệng thì mới giựt mình sực tỉnh, mới biết được cảm giác của con cá khi bị lưỡi câu đâm thủng miệng.  Vì miệng lở loét nên ông nói chuyện rất khó khăn, lúc tôi săn sóc vết thương cho ông, ông rán chịu đau và nói ra những lời hối hận này, cảm nhận được khi trước vì một chút khoái lạc nhất thời mà gây đau khổ cho những con cá; sự đau khổ đó bây giờ quay ngược lại đến với ông, cũng là đau khổ khi miệng bị lủng lỗ; khi miệng nuốt đồ ăn giống như cuống họng đang bị thiêu đốt, đang bị đâm bằng dao, đau quá cũng muốn giằng co giãy giụa như con cá cắn câu rán hết sức mình để thoát khỏi lưỡi câu.  Ông dạy cho tôi một bài học nhớ hoài không quên, đúng là ‘nhân quả tơ hào chẳng sai!’.  Có bài thơ như sau:
Mạc đạo quần sanh tánh mạng vi          (Mạng vật yếu ớt đừng khinh
Nhất ban cốt nhục nhất ban bì              Thịt, da, xương xẩu như mình khác chi!
Khuyên quân mạc đả chi đầu điểu        Chớ bắn chim trên cành kia
Tử tại sào trung vọng mẫu quy.            Chim non trong tổ đang mong mẹ về)
Có một bác bị ung thư miệng và cũng phải mổ để cắt bỏ tế bào ung thư ở gò má.  Cuộc giải phẫu này rất phức tạp, phải chia ra mấy lần mới xong, phải cắt da ngực để đắp lại vết mổ ở gò má, và đòi hỏi rất nhiều sức chịu đựng.  Ban đêm khi tôi đi tuần phòng bịnh nhân, tôi thấy đôi mắt của bác mở thao láo nhìn lên trần nhà, đêm đã khuya rồi mà bác ngủ không được; ngoài trời đêm tối lạnh, nước mắt của bác cũng rất lạnh lẽo thê lương; chúng ta phải làm sao để an ủi những bịnh nhân này?  Bác đang đợi để mổ lần thứ nhì nhưng không sống được đến lần mổ cuối cùng.  Có lẽ chúng ta thường chờ đợi để làm một công việc gì đó nhưng chưa chắc có thể sống đến lúc đó, cho nên chuyện tốt mau mau làm, niệm Phật phải niệm ngay bây giờ !
Lúc chăm sóc những người bị ung thư miệng, tôi thường nghĩ đôi lúc mình bị mụt nước lở trong miệng thì rất đau, nhất là khi ăn những thức ăn chua cay vào thì rất rát, huống chi vết thương lở loét cả hàm của những người này, khi uống nước lạnh cũng phải đau đến run.  Khi chúng ta mở miệng nói lời không tao nhã chỉ dùng năm sáu giây để nói một câu mà câu nói đó làm cho người nghe đau lòng cả đời, và khi quả báo hiện ra thì cũng đau đớn như những người bị ung thư hàm này!  Trầu và rượu có thể đem lại cho người ta một chút khoái lạc nhất thời nhưng cũng đem đến những sự đau khổ không thể nào giảm nhẹ khi mang bịnh vào thân.  Chúng ta phải nên cẩn thận, một giây phút vui sướng ngắn ngủi đi qua rất nhanh, thời gian chịu đau trên giường bịnh một ngày dài như một trăm năm!
Phòng khám bịnh số 1 và số 2 của bịnh viện nối liền nhau bằng một cánh cửa tự động.  Một hôm tôi thấy có một bà khoảng năm mươi mấy tuổi nằm ở phòng 1.  Bà bị ung thư vú và cần một loại thuốc nhưng bảo hiểm lao động chưa chịu trả cho thuốc này nên ngoài việc đau bịnh bà phải lo kiếm tiền trang trải chi phí thuốc men; bà thường khóc thầm vì chịu đựng không nổi áp lực quá lớn.  Lúc đó bên phòng 2 có một cô mới ba mươi mấy tuổi và cũng bị ung thư vú, nghe được chuyện của bà bên phòng 1 nên lấy hết tiền trong túi rồi nói với tôi: “Nhờ bác sĩ trao cho bà ở phòng kế bên”.  Cô vừa khóc vừa nói: “Chúng tôi đều chịu chung cái khổ này”.  Tôi rất cảm động và khen ngợi tinh thần Bồ Tát vị tha của cô, tôi hiểu rõ hoàn cảnh của cô còn thiếu thốn hơn bà kia rất nhiều.  Con của cô còn nhỏ nên phải gởi người ta nuôi giùm, tiền lương của chồng cô rất thấp, lại không có bảo hiểm, tiền dành dụm đã xài hết để trả tiền bịnh viện và mổ xẻ.  Khi cô được giới thiệu đến bịnh viện để trị liệu phóng xạ, cô tính bỏ mặc vận mạng đẩy đưa và không trị bịnh nữa vì không có tiền; nhưng khi cô nhìn thấy dòng chữ trên tường: ‘Cho dù ngày mai là ngày tận thế, tối nay tôi cũng phải trồng đầy hoa sen trong vườn’ nên mới nghĩ lại, đi về nhà má mượn tiền, tiếp tục trị bịnh và duy trì mạng sống.  Cô nói: “Sanh mạng thiệt là vô thường và có nhiều thử thách đầy đau khổ, tuy tôi không có khả năng lớn lao gì nhưng tôi có một chút tâm nguyện là hy vọng làm hết sức mình, giúp đỡ cho những người đồng cảnh ngộ cho họ sớm lìa khổ được vui”.  Tôi rất cảm động; hai người này đều bị bịnh ung thư nhưng một người thì âu sầu khổ não; còn một người thì vượt thoát sự bi ai của mình, giúp đỡ, an ủi, và lau nước mắt cho người khác, phát huy tiềm năng của mình; khi còn sống thì mỗi ngày trồng một hoa sen, dần dần có nguyên hồ sen thơm phức.  Thử nghĩ trị bịnh nan y đòi hỏi bao nhiêu sức chịu đựng và bao nhiêu sự giày vò; nếu đem sự giày vò này đổi lấy mạng sống âu sầu khổ não có phải là rất đáng tiếc không?  Tại sao không ‘trồng hoa sen thanh khiết’ trong tâm khảm của mình, cho dù chỉ nở một nụ cười thì cũng là bố thí, có thể làm cho mình và người khác đều được vui!  Có câu là: ‘Chỉ cần một niệm từ bi phát khởi, tật bịnh cùng khốn đều không ngại !’
Có một bé trai mới sáu tuổi đã bị ung thư tuyến lâm ba (lymphatic cancer), mới có bây lớn đã phải trải qua rất nhiều đau khổ.  Mỗi khi lượng bạch huyết cầu của em lên cao thì bác sĩ phải chích một loại thuốc có tác dụng phụ là ói mửa.  Việc làm cho em vui nhất là khi lượng bạch huyết cầu giảm xuống quá thấp, thấp đến độ không thể làm trị liệu hóa học được, bác sĩ sợ độ bạch huyết cầu quá thấp thì dễ bị nhiễm trùng có thể nguy hiểm đến tánh mạng; đối với em mỗi lần như vậy thì em vui sướng như ở tù được thả ra, tạm thời có thể ‘miễn bị hành hình’!  Em nói với tôi: “Mỗi ngày ngoại trừ xem TV thì cũng là xem TV”.  Nhà em cũng khá giả nên em được ở một phòng bịnh riêng.  Em nói: “Cô em gần lập gia đình rồi; cô mời em làm ‘em bé cầm bông’ trong hôn lễ của cô.  Phải chi em có thể trưởng thành thì tốt biết mấy, nhưng không biết có thể lớn nổi không?”  Ðây là lời nói của một em bé mới sáu tuổi, thiệt là làm cho người nghe được không khỏi ngậm ngùi.  Có lúc em ngồi ở phòng đợi để chờ chích thuốc, trước đó em rất vui khi mang đồ chơi đến đó, nhưng đến cửa phòng thì nhớ lại ‘đau khổ gần đến, gần bắt đầu rồi’ cho nên cụt hứng ngay.  Ðôi khi em cắn chặt răng đưa tay tự mình tìm ra một mạch máu rồi nói: “Lấy chỗ này đi”.  Ðôi lúc em cũng buồn hiu không chịu đi vô, em không khóc ra tiếng, chỉ khóc khe khẽ, lệ ướt đẫm mi.  Lần đầu tiên đến để rút máu từ vành tai em đã khóc hết hai giờ đồng hồ.  Cho đến nay đã chịu khổ quá nhiều lần rồi, em thừa hiểu khóc hoặc là nhõng nhẽo thì cũng không giúp ích được gì nên em rất dũng cảm để chịu đựng.  Thiệt là một em bé quá đáng thương.  Trong đời sống chúng ta không muốn già nua thì phải đoản mạng (chết yểu), nếu không muốn chết yểu thì phải già nua!
Có một người mới ba mươi mấy tuổi đã bị ung thư mũi vào thời kỳ chót.  Thường thường nếu ba mươi mấy tuổi đã chết thì có lẽ bạn nói rất đoản mạng.  Nhưng cô này chỉ mới ba mươi mấy tuổi đã làm cho người nhà của cô cảm thấy không thể chịu đựng nổi nữa.  Chồng cô phải vừa lo cho con vừa lo cho cô nên phải xin nghỉ hoài, và cũng vì vậy nên đã mất chỗ làm.  Cả nhà lâm vào hoàn cảnh thiếu thốn và phải đến hội Từ Tế xin giúp đỡ.  Hội Từ Tế đồng ý cho cô một số tiền to lớn để trợ giúp cô trả tiền nhà thương.  Má cô đợi lâu quá nên than: “Tại sao lâu quá còn chưa đem tiền lại.  Lâu quá!”.  Tôi nói: “Người ta không phải thiếu tiền bà đâu.  Tiền này là do hội viên dành dụm, ăn xài tiện tặn, từ bi đem đi giúp người.  Họ không nhẫn tâm thấy bà chịu khổ chứ không phải người nào cũng giàu có gì đâu”.  Bà thở dài ra!  Không phải lo tiền bạc nữa!  Nhưng không khí trong gia đình còn quá ngột ngạt.  Bịnh nhân cũng không an tâm tiếp tục sống, má cô lo cho cô đã quá mệt mỏi nên nói: “Mày sao không mau chết cho rồi, làm hại tụi tao phải chịu khổ theo!”.   Chồng cô khổ quá thường lại hỏi tôi: “Cổ còn ‘kéo dài’ được bao lâu nữa?”.  Tôi nói: “Xin đừng dùng chữ ‘kéo dài’ được không?  Sống được một ngày trong cuộc đời này thiệt là rất quý, tương ngộ một ngày thiệt là hiếm có”.  Nếu chỉ chú trọng vào sự khổ và để ý đến chỗ tối tăm trong đời sống của mình, cho dù không có bịnh thì cũng là ‘kéo dài’ mạng sống.  Nếu tích cực nghĩ về những chuyện tốt, cho dù đời sống rất khó khăn thì cũng đáng sống.  Nếu trân trọng đời sống, ba mươi tuổi so với mười lăm tuổi cũng là trường thọ gấp đôi, so với người sáu tuổi thì cũng trường thọ hơn gấp năm lần.
Tâm địa có thể cải tạo vận mạng.  Tôi có người bạn mới ba mươi mấy tuổi thì bị ung thư xương, trước sau tổng cộng đã phải giải phẫu hai mươi lần.  Sau một lần động mạch ra máu không ngừng nên phải cưa đứt một chân.  Ðời sống của cô còn khó khăn hơn người kể ở trên nhưng nhờ biết áp dụng Phật pháp, lấy tâm biết ơn đối đãi với nhau, cả nhà sinh sống còn vui hơn lúc chưa bị bịnh. 
Cô nói với tôi: “Tôi rất may mắn, tôi mất đi một chân mà có thể nghe được Phật pháp.  Nếu không nghe được thì không biết phải tạo ra bao nhiêu nghiệp tội, phải chịu bao nhiêu khổ đau”.  
Chồng cô ở bên ngoài phòng mổ đợi qua hai mươi lần giải phẫu, quý vị biết được tâm trạng của ông chồng này không?  Ông nâng đỡ chăm sóc cô như một vị Bồ Tát, không hề than thở chút nào.  Sau khi biết Phật pháp, cô chống nạng cùng chồng nấu đồ ăn đem cho những người cùng bị bịnh và khuyên họ niệm Phật.  Tôi hẹn với cô: “Cô học thuộc lòng kinh A Di Ðà rồi chúng ta cùng nhau đi lên núi vừa đi vừa lạy để hồi hướng cho những người bị bịnh ung thư”.  Do đó cả nhà cùng với cô học kinh, con cô mới học đến tiểu học nói với cô: “Má học thuộc lòng kinh A Di Ðà một chữ không sai thì con cho má năm trăm đồng tiền thưởng”;  Cô ở nhà vừa làm đồ thủ công vừa học kinh hoặc niệm Phật, đến tối thì trả bài cho mọi người nghe.  Ðến ngày cô học thuộc hết quyển kinh, cô nói: “Cả nhà tôi từ  trước đến giờ chưa khi nào vui mừng giống như hôm đó”.  Kể cả tiền thưởng của con và tiền công kiếm được trong thời gian học kinh cô có được bốn ngàn đồng, cô đem toàn bộ đi cúng dường Tam Bảo.  Vì muốn đi lên núi mỗi đêm khi cả nhà đã ngủ yên giấc, cô phải tập luyện lạy Phật.  Nếu bạn thấy cô dùng một chân để lạy Phật bạn sẽ cảm động đến rơi lệ.  Chồng cô tìm cách quyên tiền để làm cho cô một cái chân giả.  Cô nói: “Nếu ông có thể quyên được mười vạn đồng thì xin đưa tiền này cho tôi để tôi bố thí; tại vì một cái chân cũng đủ dùng rồi”.  Cô chỉ hai cây nạng rồi nói: “Tôi không phải là thiếu một chân mà ngược lại tôi dư một chân”.  Khi cô nói câu này là lúc tế bào ung thư đã lan đến phổi nên phải mổ và trị liệu hóa học thêm một lần nữa.  Nét mặt cô hồng hồng và thường có nụ cười thật tươi, nhiều khi còn tươi hơn những người không bịnh nữa.  Cô nói: “Nhà tôi tuy là không giàu có gì nhưng bây giờ còn vui hơn lúc trước khi chưa cưa chân nữa”.  Người niệm Phật ngay đời này đã có thể sống trong Tịnh độ, trong không khí vui vẻ hòa thuận của cuộc sống hàng ngày.  Như phần đông người bịnh ung thư khác, cô cũng không tránh khỏi tình trạng kinh tế thiếu thốn; có người mời cô mở tiệm làm trò chơi điện tử cho trẻ em có thể kiếm rất nhiều tiền.  Cô nói: “Tôi muốn thử chồng nên cố ý đem việc này hỏi ý kiến của chồng”.  Cô rất vui khi ông nói: “Chúng ta là người niệm Phật, sợ con mình bị trò chơi điện tử mê hoặc thì làm sao có thể làm hại con cái của người khác!”.  Tôi rất khâm phục hai vợ chồng này, tuy là trong hoàn cảnh khó khăn mà họ vẫn có những hành động rất cao thượng.  Có nhiều gia đình cũng vì kinh tế khó khăn nên phải sa vào hoàn cảnh đen tối, ngược lại gia đình của cô nhờ bị bịnh mà có thể hướng về đức Phật, đem những chướng ngại khó khăn của mình biến thành những đóa hoa sen thơm ngát, rất xứng đáng làm gương cho người khác.
Có một người bị ung thư hàm miệng phải giải phẫu để cắt bỏ tế bào ung thư và phải cắt bỏ luôn xương hàm dưới.  Bác sĩ phải cắt da trên ngực để đắp chỗ mổ và bất đắc dĩ ông trở thành người không có môi.  Ông không thể ăn cơm, chỉ có thể uống súp hoặc thức ăn lỏng.  Ông không thể ngồi ăn như người thường, phải nằm xuống để ăn, nếu không thì thức ăn sẽ đổ ra.  Vì không có môi cho nên đối với ông không có chuyện ‘ngậm miệng lại’.  Bạn hãy nhìn những người này làm thế nào rán hết sức mình để chịu đựng và chống chỏi với bệnh tật; có nhiều lúc tôi tự hỏi tại sao mình lại được may mắn hơn họ?  Trong lúc chịu khổ đau như vậy ai nỗ lực thì cũng có thể vượt qua; tuy họ có hoàn cảnh và tâm trạng không giống nhau và có cái nhìn đời sống khác biệt nhau, nhưng tất cả đều tin sâu những gì Phật nói.  Lúc tôi giải thích những điều Phật dạy cho người trẻ tuổi, nhiều khi phải nói đến khô cuống họng luôn mà họ cũng không tin; nhưng đối với những người đang chịu đau khổ trong bịnh viện, không cần nói gì hết, chỉ hỏi: “Khó chịu, đau khổ không?”. 
Họ đáp: “Rất khó chịu, rất đau khổ”.  
Tôi nói: “Phật nói thế gian là biển khổ, hãy niệm A Di Ðà Phật, đem tâm niệm hướng về phía quang minh, lìa khổ được vui”. 
Họ không nói thêm câu nào nữa lập tức bắt đầu niệm A Di Ðà Phật.  Hèn chi mới có câu: ‘Thập phương ba đời chư Phật đều lấy tám thứ khổ làm thầy’.  Khổ là vị thầy tốt nhất, nhưng chúng ta phải đợi cho đến lúc này sao?
Lại thêm một người bị ung thư hàm miệng, ông đã bị mù, tế bào ung thư đã phát triển đến cổ.  Nước vàng không ngừng từ gò má chảy xuống.  Con dâu của ông nói: “Ở nhà tôi xịt không biết bao nhiêu dầu thơm cũng không làm những mùi hôi này bay mất”.  Tôi nghe rồi mới nói riêng với cô: “Tôi thấy cô thường dẫn ba chồng của cô đi khám bịnh, cô rất có hiếu thảo; chăm sóc cho người bịnh ung thư rất khổ, nhưng Phật có nói: ‘Trong tám phước điền, chăm sóc cho người bịnh là phước điền hạng nhất’.  Nếu cô tận tâm chăm sóc cho ông, làm cho ông già được hoan hỷ, tự nhiên phước báo sẽ vô lượng.  Một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ già đi, sẽ sanh bịnh, chúng ta đối xử với người già như thế nào, con cái của ta cũng sẽ bắt chước theo để đối xử với chúng ta.  Chúng ta phải để ý, cho dù một hành động lời nói rất nhỏ nào cũng vậy, cũng phải thương xót và tội nghiệp cho người bịnh.  Người bịnh không muốn có những mùi hôi như vậy.  Ngày nay một trong ba bốn người sẽ có một người bị ung thư, nếu người đó là mình thì cũng không thể nào không có mùi hôi; họ bất đắc dĩ phải như vậy mà, nếu cô có thể bao dung một chút thì cô sẽ có thêm phước báo.”
Vì ông bị mù nên thường hỏi bác sĩ bệnh trạng rất kỹ: “Bịnh của tôi thật sự ra sao?  Bác sĩ nói thiệt cho tôi biết đi, không hề gì đâu.  Ðiều tôi lo nhất bây giờ là con tôi còn một đứa chưa lấy vợ!”.  Ôi chao, người ta đúng là có vô biên phiền não, một mình bịnh nặng mà không lo, lại lo cho ‘đứa con chưa cưới vợ’!
Khi một người không có năng lực lo cho mình thì thiệt ra không có khả năng và biện pháp gì để lo cho người khác.  Nếu không vượt qua biển khổ của mình thì không thể nào độ người khác và giúp họ vượt qua biển khổ được.
Có một bịnh nhân ở trước ngực có xâm hình rồng và cọp, chắc trước kia là người trong băng đảng gì đó.  Từ ngày bị  ung thư hóc miệng trở đi ông bắt đầu chân thành sám hối. Ông nói: “Tôi thiệt đáng đời”, không một lời trách móc, chân thành ăn năn, giúp đỡ bịnh nhân khác, tận lực tu thiện.  Trải qua rất nhiều hoàn cảnh khổ nạn cuối cùng ông cũng đã vượt qua…
Tôi thường nghe bịnh nhân than thở: “Cả đời tôi đâu có làm ác, đâu có làm hại ai đâu, đúng là ông trời không có mắt; tại sao để cho tôi bị bịnh khổ như vầy?”.   Lời này làm tôi suy nghĩ có thiệt như vậy không?  Có thiệt là chưa làm việc ác không?  Nếu đúng như vậy thì chúng ta đều là thánh nhân hết.  Xem lời Phật dạy, chúng ta từ nhỏ đến lớn khi gặp chuyện không vừa ý thì nổi giận, mở miệng thì chửi mắng.  Vì dục vọng khi ăn uống không đoái hoài gì đến gà con mất mẹ, không màng gì đến heo con một nhà sanh ly tử biệt. Không nói lời thành thật, làm việc không tích cực, thường cãi lời cha mẹ, vân vân.  Tất cả không có thứ nào không bị tham, sân, si chi phối.  Người có trồng cải rồi đều biết hột cải tuy nhỏ nhưng lúc mọc ra cây cải thì không nhỏ.  Lúc quả báo chưa hiện ra chúng ta còn dám nói xấu người khác, hoặc là trong lúc giận dữ nói lời xúc phạm đến người khác, dám mời khách ăn hải sản sống.  Khi quả báo hiện ra mới biết khổ không chịu đựng nổi, đến lúc bị khổ nạn mới cầu nguyện để tiêu nghiệp chướng. 
Lão hòa thượng Quảng Khâm có nói:
Phải từ thân, khẩu, ý mà tiêu trừ căn bản của nghiệp chướng”. 
Nói một cách khác khi tham ăn, nghĩ đến con cá chép, con cá trê này cũng là một chúng sanh mà mười phương chư Phật thương xót; nói như vậy thì đó cũng là huynh đệ của mình, chư Phật đang thương xót, má nó đang trông đợi nó;  khi gặp chuyện muốn nổi giận nhưng vì hiểu đó đều là mộng huyễn cho nên không sanh tâm sân hận nữa.  Nhịn không được muốn chửi người, nghĩ đến họ cũng là chúng sanh mà đức Phật A Di Ðà ngày đêm trông mong để cứu độ và tiếp dẫn; họ cũng bị nghiệp lực trói buộc và có sự khổ não, cho nên mới chuyển tâm niệm để nghĩ đến Phật và niệm Phật. 
Nếu có thể sửa đổi mình một cách tích cực, không bị ngôn ngữ, hành động, ý niệm của thói quen làm chướng ngại, nghiệp chướng sẽ bị tiêu trừ, sự khổ của bịnh tật cũng nhờ tâm niệm từ bi nhu nhuyễn hóa giải và giảm dần đi.
Tôi gặp một giáo sư trung học, ông là một bịnh nhân rất phi thường.  Mỗi lần đi ngang giường bịnh tôi đều dùng tâm niệm tìm tòi học hỏi để quan sát họ.  Khi ông vào bịnh viện thì ung thư đã lan đến tuỷ xương sống, đè đến dây thần kinh cho nên hai chân không thể cử động được nữa.  Trải qua một thời gian dùng phóng xạ trị liệu thì miễn cưỡng có thể chống nạng đi được;  nhà cầu ở ngay kế bên giường đối với ông là một khoảng cách rất xa.  Ông thường phải phấn đấu rất khó khăn mới có thể ngồi dậy và đi vào nhà cầu; mặc dù thân thể của ông rất yếu nhưng hai mắt ông rất có tinh thần.  Ông nói chuyện rất khó khăn vì thần kinh trong não cũng bị ung thư.  Lúc ngủ hai mắt nhắm không được, rồi sau đó xương chân bị gãy luôn.  Trong lúc bị bịnh nặng như vậy mà ông nói: “Rất tiếc là bây giờ tôi không thể dạy học được nữa!” (ông đã là một giáo sư rất nhiệt tâm dạy học trò).  Ông nói: “Từng trải qua cơn bịnh quá đau khổ này làm cho tôi hiểu thêm về cuộc đời, hiểu rõ được sự khổ đau của mọi người, tôi sẽ càng thương yêu chăm sóc học sinh của tôi; rất tiếc là tôi không còn cơ hội nữa!”.  Tôi nói: “Ông là một giáo sư rất đáng kính trọng, chỉ xem nguyện vọng của ông khi bị bịnh như vậy thì biết được”.  Ông từ trên giường phấn đấu để ngồi dậy nhưng chỉ có thể ngước đầu lên ba tấc.  Chúng ta lúc ngồi dậy thì lập tức ngồi dậy.  Ông phấn đấu đến cả người đổ mồ hôi ướt đẫm áo cũng chỉ ‘gần’ ngồi dậy được; nhưng ông rất vui và nói: “Tôi hôm nay có thể nhích được khoảng cách như thế này”.  Ðối với tôi, khi ông ngồi dậy được khoảng 30 đến 40 độ còn đáng nể phục hơn lực sĩ nhảy xa ở Thế Vận Hội.  Ngoài sự phấn đấu về thể lực ra ông còn có tâm nguyện muốn tiếp tục dạy học và tiếp tục chăm sóc cho học sinh.  Người thường chúng ta mỗi ngày khoẻ mạnh đầy đủ tinh thần nhưng thường tính toán chuyện nhỏ nhặt để đem phiền não đến cho mình; chúng ta thường than trách công việc trong chỗ làm, có sức lực khả năng mà không làm chuyện tốt. Ông là một bịnh nhân nằm chịu đau trên giường nhưng lại có nguyện vọng đi dạy học trở lại để chăm sóc dạy dỗ thêm cho học sinh.  Tuy là ông không thể làm vậy được, nhưng tâm nguyện rộng lớn chân thành của ông đã đem ông lên giảng đài vĩnh viễn và trở nên giáo sư của hàng vạn người.
Có một người bị ung thư lưỡi đang trong thời kỳ cuối cùng.  Tế bào ung thư đã từ lưỡi lan rộng đến cả hàm dưới.  Lúc đầu còn khoẻ thì có thể tự mình đi đứng được, sau đó phải có hai người vịn ở hai bên mới đi được, rồi phải ngồi xe lăn, rồi cuối cùng thì không cử động được nữa.  Nước vàng từ những chỗ bị ung thư rỉ ra hoài; mỗi khi tôi đến thay thuốc ông thường hỏi: “Tại sao càng ngày càng lớn vậy?”.  Ông nói chuyện không rõ ràng; khi tôi rửa vết thương thay thuốc cho ông, ánh mắt của ông nhìn tôi hình như là đang hỏi: “Không biết bịnh của tôi có thể lành được không?  Tôi gần chết rồi phải không?”  Cái tâm trạng sợ hãi đó chính là tấm ảnh của ‘sanh tử trên sông Hằng’.
Khi chúng sanh đối đầu với sanh tử, ai cũng cảm thấy rất cô độc, sợ hãi, khủng bố.  Cho dù là một bà mẹ tám mươi mấy tuổi cũng co ro vào lòng tôi khóc nức nở như một đứa bé …  Một hôm tôi đi nghe giảng kinh và đi ngang qua đường T. H.   Trời lúc đó rất lạnh, quán bán thịt nai bên đường vừa mới khai trương.  Tôi lái xe mô tô đi ngang nhìn thấy có ba con nai đang đứng khép nép trong lồng.  Ánh mắt của con nai đó rất quen thuộc, rất giống ánh mắt của những bịnh nhân đang nằm trong bịnh viện, hình như họ đang nói: “Tôi sắp chết phải không?  Mau mau cứu tôi với; không kể dùng thuốc gì, dùng phương pháp gì …”  Tội nghiệp ba con nai.  Hãy thả chúng ra!  Thả cho chúng về rừng đi!  Một khi hô hấp của chúng ngừng lại thì không có cách gì có thể làm cho nó chạy nữa, mau mau kiếm người chủ van xin đừng giết chúng nó!  Khi quay trở lại tôi ghé ngang và mua mấy con nai đi phóng sanh.  Khi người chủ nghe chúng tôi muốn đem nai đi phóng sanh, cảm động mà nói: “Tôi là người nuôi nai, rất thương yêu chúng, không bao giờ giết hại chúng.  Nhưng vì kinh tế khó khăn, bất đắc dĩ hôm nay phải bán chúng làm thịt, tôi cũng rất đau lòng!”.  Nghe xong tôi rất xúc động, chúng sanh tạo nghiệp thọ báo đều có những sự khổ não bất đắc dĩ như vậy. Thật ra mỗi người đều có Phật tánh; đây cũng là lý do mà đức Phật A Di Ðà luôn luôn khoan dung, thương xót, chờ đợi đến lúc chúng ta có một niệm quay đầu trở về với quang minh.  Chúng tôi mua nai xong đem chúng đi quy y Tam Bảo rồi thả vào rừng, hy vọng là chúng sẽ không bị bắt trở lại, và cũng nguyện cho những người đi săn có thể phát Bồ đề tâm, gặp nhân duyên thiện có thể đổi nghề nghiệp, chấm dứt nghiệp sát để khỏi chịu khổ báo nữa.
          Bịnh nhân thường để một con cá trê hay cá chép trong nồi hay thau nước ở dưới giường hoặc trên bàn để ăn cho bổ.   Khi tôi đến thăm bịnh thì thấy hình như những con cá này đang vùng vẫy.  Có một hôm tôi đến giường bịnh của một cô bị bịnh ung thư vú.  Cô là một tín đồ Cơ Ðốc giáo rất trẻ, mới hai mươi bảy tuổi đã bị bịnh này; bạn có thể tưởng tượng được khổ tâm của cô không?  Hai tay cô lúc nào cũng lạnh.  Ở dưới giường cô có để một con cá; tôi nói với cô:
“Có người đang kêu cứu ở dưới giường cô”.  Cô mở mắt thật lớn và tỏ vẻ rất ngạc nhiên.  Tôi hỏi cô:
“Lúc cô biết được cô mắc phải bịnh này thì cô rất hy vọng sẽ có người cứu cô hết bịnh phải không?”.  Cô gật đầu, tôi nói tiếp:
“Con cá dưới giường biết là nó sắp sửa vô chảo nóng, cảm tưởng của nó cũng giống cảm tưởng của cô bây giờ.  Cô chịu làm Chúa Giê Su đi cứu con cá này không?  Con cá đang cầu cứu cô đó.  Cô hãy xem”.  
Mắt của cô đỏ lên (muốn khóc).  Tôi mới nói thêm:
“Cô phát tâm cứu chúng nó, lúc cô bị chuyện khó khăn hay tai nạn, tự nhiên sẽ có người lại cứu cô”.  Cô vui mừng chịu đem cá đi phóng sanh.  Sau đó một vị đạo hữu ở trường đại học Chuyên Khoa Ðài Trung giúp cô đem cá đi phóng sanh…
Nhiều khi tôi nói với bịnh nhân: “Bán cho tôi nồi cá sống này được không?”.
Bịnh nhân thường nói:  “Nếu bác sĩ thích ăn thì tôi tặng cho bác sĩ”. 
Tôi trả lời: “Tôi ăn chay, không ăn cá, tôi muốn mua những con cá này đi phóng sanh, đem công đức phóng sanh này hồi hướng cho bạn, hy vọng là bạn cũng giống như con cá này cũng được giải thoát, khôi phục lại sức khoẻ, sớm lành bịnh về nhà đoàn viên với gia đình.” 
Thông thường những bịnh nhân đã chịu quá nhiều đau khổ hoặc có kinh nghiệm đi gần đến cánh cửa sanh tử đều hiểu rõ ‘tình cảnh của mình cũng giống như của con cá’.  Họ thường phát tâm từ bi đem cá đi phóng sanh.  Tâm niệm đem cá phóng sanh thường có thể làm cho họ có cảm giác vui vẻ, cổ võ sự yêu đời của họ, và làm tươi nhuận đời sống họ nhiều hơn là ăn cá.
          Có một người trẻ tuổi khi đi trên phố nửa đêm bị kẻ bất lương đâm vào bụng bị thương nằm ngã quỵ ở bên đường.  Sau đó được người ta chở vào nhà thương, vết thương quá lớn nên lòi ruột ra, gan và mật cũng bị thương.  Chúng tôi nửa đêm phải giúp anh giải phẫu và khi đó anh không có người nhà đi theo nên chúng tôi phải chụp hình vết thương trước khi giải phẫu để ngừa trường hợp giải phẫu có trục trặc gì phải có bằng chứng bị thương trước… (Trong xã hội hiện nay chúng ta cứu người cũng không phải là chuyện dễ dàng!).  Anh này mới đính hôn không bao lâu, bạn có thể tưởng tượng được sự bối rối, lo lắng của người vợ sắp cưới khi nghe tin anh bị thương không?  Những thứ trong bụng chúng ta thật không phải là vật gì tốt đẹp, đức Phật nói với chúng ta về ‘quán bất tịnh’, chúng ta có thể quán tưởng thử xem.  Nếu lúc đính hôn mà lấy một tấm hình vết thương bụng máu me tùm lum đem cho người ta xem, chắc rất ít người sẽ chịu đính hôn với bạn!
Có một bịnh nhân nọ vào bịnh viện để trị bịnh xương, phía trên chân có gắn một cây bằng kim loại xuyên qua xương và qua luôn cả bắp thịt phía bên kia.  Phía dưới chân cũng xỏ thêm một cây như vậy.  Bạn có thể tưởng tượng khuôn mặt và tiếng hét kêu đau của người này lúc đút cây vào xương.  Nếu người đó là bạn thì bạn có thể mỉm cười được không? Chúng ta thử đoán xem?  Bạn thấy những chỗ bán chim nướng ở chợ đêm không?  Có cả năm mười con chim xỏ chung vô một xâu treo lủng lẳng trước quày hàng.  Sự đau khổ gì gây ra cho những chúng sanh khác một ngày nào đó cũng có thể xảy ra đến thân thể chúng ta.  Khi chuyện đó xảy ra thì chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng đau đớn, một chút xíu cũng không dễ chịu.  Nhưng chúng ta thường đem sự đau khổ này gây ra cho chúng sanh khác một cách vô tình và xem như không có gì xảy ra.  Hãy nghĩ đến sự khổ của chúng sanh, và cũng nên nghĩ đến hạnh phúc lâu dài, xin tất cả mọi người đừng làm vậy nữa, để khỏi ‘hý tiếu sát tha mạng, bi khốc nhập địa ngục’ (cười vui khi giết mạng sống của con vật, rồi khóc than lúc vào địa ngục).
Có một người bị ung thư tử cung mỗi lần gặp tôi đều khóc.  Bà đã ly dị và một mình nuôi mấy đứa con rất cực khổ; đứa nhỏ mới học tiểu học thì bà bị bịnh này.  Mỗi ngày âu sầu phiền muộn qua ngày…  Thật ra trước đó bà đã trị bịnh gần hết rồi; nếu bà có được chút ít trí tuệ trong đời sống… thì cũng có thể sinh sống vui vẻ.  Người ta có thể trị hết bịnh ung thư, nhưng sự đau khổ trong tâm nếu không dùng trí huệ và nghe Phật pháp thì trừ không hết.  Bà đã được trị liệu bằng phóng xạ, bằng giải phẫu, chỉ thiếu một chuyện là không thỉnh đức Phật mổ cho tâm bà.  Sự giải phẫu có hiệu quả nhất là phải giải phẫu trong tâm, bứng tận gốc rễ của phiền não, để bà đừng ôm cứng cây cổ thụ phiền não mỗi ngày mà cứ tưởng là cây phiền não quấn chặt lấy bà.
Có một bà lão lúc vào bịnh viện băng kín vải trên mắt.  Lúc tôi mở băng ra trong tâm cảm thấy đau nhói!  Bà lão này có gương mặt rất hiền hậu, tròng mắt bà đã bị móc ra vì bị ung thư nên phải làm như vậy.  Chúng ta có khi nào nghĩ đến lúc dùng đũa để gắp tròng mắt của con cá trên bàn ăn?  Chúng ta thử nghĩ đến Helen Keller, một vĩ nhân bị điếc, câm, và mù đã viết như vầy: ‘Nếu mắt tôi có thể sáng lại được chỉ ba ngày thôi, chỉ ba ngày thôi…’.  Chúng ta có thể trong một trường hợp nào đó sẽ bị mất đi đôi mắt, vậy mà lúc còn đôi mắt thì lại nhìn đông, nhìn tây và tự mình sanh ra phiền muộn?  Tại sao chúng ta không nhìn ánh mắt từ bi của đức Phật?  Tại sao không nhìn về phía có vô lượng hào quang?  Chúng ta thường dùng cặp mắt quý báu để nhìn rác rến ở chung quanh; đem rác rến của người khác bỏ vào tâm khảm của mình.  Ðể lâu rồi thì cả nội tâm giống như một cái thùng rác hôi thúi nên phải xa cách với chúng Bồ Tát trong thanh tịnh đại hải.  Xin hãy mở rộng con mắt của nội tâm, nhân lúc còn nhìn thấy được, hãy nhìn cái tốt đẹp của người khác, học tập ưu điểm của người khác; hãy cảm nhận thêm một chút, hãy nhìn thêm ‘cám mục trừng thanh tứ đại hải’ của đức Phật A Di Ðà, hãy nhìn phong cảnh cực kỳ xinh đẹp của thế giới Cực Lạc, và tấm lòng rộng lớn như biển của chư Bồ Tát.
Có một người bị ung thư ở thực quản, hô hấp bị khó khăn, phải đút một ống từ mũi vào phổi để giúp sự hô hấp và một ống để đút đồ ăn vào bao tử; có khi bà phải rán sức để ho, mỗi lần ho thì đau như xé ruột gan, toàn thân run rẩy vì đau đớn.  Chồng bà nhìn thấy cảnh tượng đau lòng như vậy chịu không nổi nên chạy ra hành lang mà khóc.  Ðôi lúc tôi đi chợ nhìn thấy những con gà bị treo trên quày thịt cũng tội nghiệp như vậy.  Trên cổ của con gà nào cũng có khoét một lỗ để treo, rất ít người thương hại sự đau đớn của chúng nó; nhưng đến khi người đút ống thở vào mũi là vợ, là con, hoặc là mẹ của bạn thì bạn cũng sẽ đau nhót ruột mỗi khi họ ho và thở mạnh.
Có một người làm nghề bán thịt heo, ông bị ung thư phổi được một thời gian thì qua đời.  Tôi nghe vợ và con ông kể lại khi ông về nhà mấy ngày hôn mê không tỉnh nhưng miệng cứ la hét và nói:
“Mau mau đem những gan heo treo trên tường đi chỗ khác”.  Hoặc là:
“Mau đem đầu heo đi chỗ khác”. 
Ông cứ kêu la như vậy suốt mấy ngày đêm, mọi người trong nhà sợ đến lông tóc dựng đứng nhưng không hiểu ông nói cái gì.  Cảnh tượng lúc ông chết rất là dễ sợ, ông chịu rất nhiều đau khổ.  Từ đó người nhà của ông mới biết nhân quả báo ứng của sự sát sanh; khi ông nằm bịnh viện tôi đã khuyên người nhà ông niệm Phật, nhưng họ nói trong lúc buồn khổ như thế thì làm sao niệm được?  Tuy đức Phật A Di Ðà có lòng đại từ bi tiếp dẫn người niệm được mười danh hiệu Phật lúc lâm chung vãng sanh về cõi Cực Lạc, nhưng lúc còn khỏe mạnh người ta rất khó niệm được vì bị mê hoặc bởi tình ái của thế gian, huống chi là lúc gần chết bị sự bịnh khổ giày vò hành hạ thì làm sao có thể niệm được!  Nguyện cho sự thị hiện thuyết pháp của người bịnh này làm cho người khác nghe thấy được và rút tỉa kinh nghiệm để tránh khỏi sự đau khổ tương tợ.  Và cũng nguyện công đức cảnh giác chúng sanh của ông có thể giúp ông lìa cảnh khổ và được Phật tiếp dẫn.  Và cũng nguyện cho những chúng sanh bị ông giết hại nương vào nước cam lồ của Phật pháp, cởi mở gút mắt trong lòng, đồng niệm Di Ðà, đồng sanh tây phương, đồng thành Phật đạo.
Người khỏe mạnh thường than ngủ không đủ.  Trong bịnh viện có quá nhiều nước mắt, sự đau khổ kéo dài lây lất!  Người chưa tới số, nằm nướng trên giường và nói đồng hồ reo báo thức quá ồn.  Người tới số, suốt đêm chiến đấu và dằng co với sanh tử.  Có một người bị ung thư ở hàm dưới và lan đến cuống họng.  Ông không thể nuốt được, hô hấp cũng khó khăn, cho nên bác sĩ mới khoét một lỗ ở bụng để đút ống dẫn thức ăn vào dạ dày, và khoét một lỗ ở cổ để giúp sự hô hấp.  Chúng ta có thể ăn uống không cần khoét lỗ để đút đồ ăn và hô hấp không cần khoét lỗ đút ống thì thiệt rất quý, rất đáng biết ơn!  Vài ngày trước khi ông mất, có thể nói là mỗi ngày đều chảy máu một chút, cách hai ba ngày lại chảy máu nhiều; máu từ miệng và mũi chảy ra, từ chỗ đút ống thở chảy ra.  Những người y tá và bác sĩ trực rất muốn cứu ông nhưng chỉ có thể đứng một bên cầm cái thau để hứng máu từ thân ông chảy ra, rồi phải truyền máu cho ông tại vì máu trong mình ông chảy ra từ những chỗ không thể cầm được.  Có một lúc máu của ông chảy ra dính vào cả người tôi.  Ðôi mắt của ông đỏ ngầu và sưng lớn lên trông rất dễ sợ.  Cả đêm chúng tôi ở bên cạnh chăm sóc và hứng máu cho ông.  Sáng ngày hôm sau còn phải tiếp tục khám bịnh nên tôi mới nhờ một người bạn đem áo lại cho tôi thay.  Áo tôi có thể thay còn áo của ông thì không thể thay được!  Bạn biết không, mỗi lần ông cử động mạnh một chút là máu chảy ra nhiều thêm nữa. Chúng tôi phải không ngừng tiếp máu vào cho ông nhưng cũng không nhanh bằng máu từ người ông tuôn ra; thuốc men gì cũng hết công hiệu; thân thể ông cứ chảy máu như vậy và hành hạ ông cả ngày, cả đêm.  Người ta muốn nhắm mắt một cách êm đềm thiệt không phải là một việc đơn giản!
Từ hôm đó tôi hiểu thêm một chút về vấn đề sanh tử, cái hình bóng phản chiếu trên sông Hằng rất có thể cũng là hình bóng của chính mình!
Có một em trai 16 tuổi là một học sinh hạng nhất trong lớp; em bị bịnh ung thư não.  Em đã phải mổ não bốn lần mà ba lần mổ được tiến hành trong cùng một năm. Em vào bịnh viện lần này để trị liệu phóng xạ, xương não của em bị cắt đi một khoảng cho nên cái đầu bị lõm vô một bên.  May mà tánh mạng còn duy trì và có cơ hội nghe được Phật pháp. Một hôm tôi nhận được một bức thiệp cám ơn của ba em gởi.  Trong đó ông nói là em nhờ ông viết và hy vọng nếu thuận tiện thì xin gởi cho em một tượng Phật để em lễ lạy.  Ông rất khách sáo sợ làm phiền tôi, và làm như là bất đắc dĩ lắm mới xin tượng Phật.  Tôi cảm động đến chảy nước mắt nên lập tức đi thỉnh một tượng Phật A Di Ðà cho em.  Ông ở Phong Nguyên, tôi quá bận nên phải nhờ một cô y tá đem cho ông.  Cô y tá này kể lại khi cô vừa đến thì em từ trên giường ngồi bật dậy, vì nửa thân người gần như cử động không được nên đi cà nhắc nhưng rất hăng hái và có tinh thần để đi lạy Phật.  Nhìn cảnh tượng như vậy nên cô cảm động và nói: “Tứ chi tôi còn khỏe mạnh nhưng từ trước đến nay không bao giờ có ý muốn lạy Phật, nhìn thấy em chí thành như vậy, phấn đấu hết sức lực yếu ớt của mình để lạy Phật, tôi rất xấu hổ”.  Khi người ta còn khoẻ mạnh đi đứng cử động được, thì cứ nghĩ đó là tự nhiên, ít khi nào quý trọng.  Thời gian thân thể khỏe mạnh không thể kéo dài hoài được, những đoạn trước có kể người ta có thể mất đi miệng, mất cuống họng, thậm chí đến mất bộ não.  Ngày nay chúng ta còn có miệng chúng ta nên học những lời nói ôn hòa tốt đẹp, cùng nhau khuyên nhủ giúp đỡ, cùng nhau niệm câu vạn đức hồng danh ‘A Di Ðà Phật’. Chúng ta không biết khi nào có thể mất đi bộ não, ngày hôm nay nên dùng nó để nghĩ đến hào quang và lòng từ bi của đức Phật. 
A Di Ðà Phật.  A Di Ðà Phật.
Khi tôi làm bác sĩ nội trú vào năm thứ nhất, có một đêm trực ở phòng cấp cứu.  Nửa đêm có một người bị nghẽn động mạch cơ tim, đã ngừng hô hấp và hôn mê không tỉnh. Mặt và lưỡi đã biến thành màu tím ngắt.  Máy đo tim và kết quả thử máu cho biết là tim đã bị hư hoại trầm trọng; theo kinh nghiệm của bác sĩ chủ nhiệm thì bịnh trạng nhẹ hơn người này cũng không cứu được nữa huống chi là tình trạng nặng như người này nên nói cho người nhà phải ‘chuẩn bị tinh thần’.  Tôi cứ theo lệ thường vừa niệm Phật vừa lo cấp cứu bịnh nhân.  Dùng hết nhiều thứ thuốc rồi nhưng huyết áp của ông không thế nào đo được, ông vẫn còn hôn mê và không thể tự mình hô hấp.   Vợ của ông đau lòng nói với tôi:
“Người ta nói ông trời thương và giúp đỡ người hiền lương, nhưng tại sao ông trời không thương tôi?”.  “Xin bác sĩ tìm mọi cách để cứu ông, cho dù ông biến thành ‘người thực vật’ thì tôi cũng chịu chăm sóc cho ông”. 
Tôi cảm thấy là bà rất đôn hậu và thật thà nên mới khuyên bà:
“Lúc người gặp tai nạn lớn, phải phát đại nguyện niệm Phật thì hy vọng có thể vượt qua”. 
Bà nói: “Làm sao phát đại nguyện?”. 
Tôi nói: “Dùng tâm chí thành của mình mà phát đại nguyện”. 
Bà liền nói: “Từ nay trở đi hai vợ chồng chúng tôi sẽ ăn chay trường và niệm Phật; ông ta là thầy giáo, khi hết bịnh có thể hoằng dương Phật pháp”. 
Tôi đưa bà và mấy người con mỗi người một xâu chuỗi và nói: “Ðêm nay quý vị nóng lòng chờ đợi trong phòng cứu cấp thì cũng không ích lợi gì, không bằng đem tâm bồn chồn này lắng xuống để niệm một vạn danh hiệu Phật A Di Ðà, cầu Phật gia bị, Phật lực không thể nghĩ bàn.  Chúng tôi rán hết sức để cứu ông, quý vị vì ông mà niệm Phật, nếu thọ mạng của ông hết thì ông cũng có thể vãng sanh Cực Lạc”.  Ðêm đó ba người bác sĩ chúng tôi cứ nhìn các điện đồ đo tim và đo máu, điều chỉnh lượng thuốc từ 7 giờ chiều đến 3 giờ khuya.  Một trong ba bác sĩ than là: “Chúng ta ba người trực cả đêm để lo cho một người mà không đo áp suất máu được!”  (Nghĩa là người này nếu không có gắn máy thì không thể tự mình hô hấp được).  Ðiều kỳ lạ là đến khoảng bốn năm giờ sáng thì áp suất máu của ông từ từ tăng lên, ông cũng từ từ tỉnh lại.  Tôi lập tức đi thông báo cho người nhà của ông. Tôi rất cảm động khi mở cửa nhìn thấy cả nhà ngồi xếp thành một hàng đang niệm Phật một cách rất chí thành.  Con của ông viết trên một trang giấy: “Thưa ba, con rất muốn ba mở đôi mắt hiền từ ra”. 
Có một thanh niên đến thăm ông và khóc sướt mướt làm tôi cứ tưởng là con của ông.  Người thanh niên đó nói: “Ổng là thầy tôi, lúc trước ổng ở trong một chái nhà lụp sụp, dùng hết tiền lương để cung cấp lo cho đám học sinh chúng tôi.  Nếu không có thầy thì hôm nay không có tôi, xin bác sĩ nhất định phải cứu sống ổng”.  Lời nói chưa dứt thì lại khóc tiếp; sau đó tôi mới biết ông đã được chọn là một trong ‘mười vị thầy có lòng thương lớn nhất đối với học sinh’.  Sau khi ông tỉnh lại phải tiếp tục dùng máy để trợ giúp hô hấp thêm ba ngày nữa.  Lúc đó ông bắt đầu niệm Phật;  ngoài bịnh bị nghẽn động mạch cơ tim ông còn bị bịnh phổi nữa.  Cuối cùng ông cũng lành bịnh và tự mình bước đi ra khỏi bịnh viện.  Sau đó ông trở lại bịnh viện kiếm tôi để hợp tác in kinh.  Những bác sĩ xem qua tâm điện đồ và kết quả thử máu và thấy sức khoẻ ông từ từ bình phục đều cảm thấy không thể tưởng tượng nổi.
Có một cô gái rất đẹp lúc trước từng là hoa khôi trong trường.  Trên mặt bị bịnh ung thư sưng lớn lên khoảng gần bằng ba cái đầu chụm lại.  Lúc tôi mới gặp và  nhìn thấy cô thì có cảm tưởng như là có đứa bé đang ngồi trên đầu.  Tuy cô phải chịu đựng sự đau khổ to lớn này nhưng nghĩ lại cũng còn may.  Trong thời gian đau khổ này cô biết đến Phật pháp, cô than là: “Rất tiếc tôi nghe được quá trễ!”.  Nhưng nếu kịp thời phát tâm thì cũng không trễ.  Trong trường hợp đau khổ như vậy nếu người khác thì đã kêu trời kêu đất rồi, ngược lại cô còn có thể niệm Phật.  Cô đem sự đau khổ biến thành nước cam lồ của lòng từ bi, đổi sự áo não buồn rầu thành ánh sáng thanh lương, tâm cô đã nương dựa vào đức Phật A Di Ðà. Cô đem tất cả tài sản của cô ra để cúng dường cho mọi người và dặn dò chuyện lâm chung đại sự.  Rất nhiều pháp sư và liên hữu cũng cảm động và từ bi niệm Phật tiếp cô.  Một hôm cô đưa năm trăm đồng nhờ tôi mua hột giống hoa đem gieo trong chùa hoặc là phía trước của Tịnh Nghiệp Tinh Xá Niệm Phật Ðường; cô nói là để khi nào hoa nở có thể cúng Phật, có hoa nở ra hoài để cúng Phật.  Chúng ta là người khoẻ mạnh nhưng không ai có tâm niệm đẹp như cô.  Có lẽ bạn sẽ nói mặt của cô rất xấu xí, diện mạo không còn đẹp như xưa nữa, nhưng nghĩ lại chúng ta có tâm niệm đẹp như cô không?  Cô đưa tôi sợi dây chuyền quý nhất mà má cô tặng cho cô lúc trước và nói: “Nhờ bác sĩ bán sợi dây chuyền này xong rồi đem tiền đi in kinh, cúng dường Tam Bảo… tuỳ tiện làm thế nào cũng được, miễn là có thể làm lợi ích cho chúng sanh”.  Thật là hiếm có, trong lúc cô chịu đựng muôn vàn đau khổ mà lại có được tâm niệm đẹp như vậy, bạn đã thể hội được sức lực của Phật pháp hay không?  Rất nhiều người vào thăm cô, cô nói: “Tôi bị bịnh này là do nghiệp báo [của những chuyện ác mà tôi làm lúc trước], quý vị thăm tôi rồi sau này phải đừng làm việc ác, nên làm việc lành, luôn luôn nhớ như vậy, phải biết dự trữ đồ ăn phòng khi đói kém.  Mau sớm niệm Phật thì mới không uổng chuyến đi thăm tôi lần này”. 
Có một ông già tám mươi tuổi bị ung thư phổi từ viện dưỡng lão đến. Ông nói: “Lúc ông năm tuổi thì cha ông mất, tám tuổi thì mẹ mất, một người sống cô đơn đến nay đã 80 năm”.  Có thể nói là ông đã nếm đủ hết mùi vui, buồn, ly, hiệp trong đời.  Ðến nay đã già lại mắc phải bịnh nặng, suốt ngày phải nằm trên giường.  Có một đêm ông ngồi dậy ôm gối tự nói chuyện với mình : “Tôi muốn đi về, tôi muốn đi về”; giọng nói rất là thê lương, nhưng lúc đứng dậy thì đứng không vững và lại té bị thương.  Răng trong miệng đã bám đầy bựa, mỗi ngày y tá phí bao nhiêu sức lực để kêu ông chà răng, ông nhất định không chịu chà và nói: “Người muốn chết rồi, chà răng để làm gì nữa!”.  Ðã gần hai tháng ông không chịu ăn gì hết nên gần kiệt lực vì đói.  Rất khó khăn lắm tôi mới để thuốc và thức ăn vào miệng ông, nhưng ông nhất định không chịu nuốt và quyết tâm muốn chết.  Sau đó đại và tiểu tiện cũng không khống chế và điều kiển được; đi đại tiểu tiện ngay trên giường bịnh.  Ông không có gia đình, người làm trong bịnh viện không đủ, không có người túc trực ở kế bên để thay vải trải giường và thay quần áo.  Sau đó cả quần áo cũng không còn sức để mặc mà cũng không chịu mặc, chỉ còn trơ da bọc xương như vậy nằm trên giường.  Vì ông không chịu ăn cơm cho nên chỉ có thể chích thuốc.  Tay ông bấy hết vì kim đâm để chích thuốc hoặc lấy máu.   Ðây là cái khổ của sự già nua.  Khuyên ông niệm Phật nhưng ông cũng rất khó niệm được, mỗi lần nhìn ông thì không có bút mực nào diễn tả hết những sự đau lòng khổ não này.   Ông cũng đã từng khoẻ mạnh như chúng ta, đã từng bước đi thoăn thoắt trèo non vượt suối, cũng đã từng giống như chúng ta, khi đói thì kiếm ăn, cười tươi như hoa nở.  Nhưng những đợt sóng sanh tử của sông Hằng một giây phút, một tích tắc cũng không chịu ngừng lại…  Thân thể chúng ta cũng như căn nhà có thể bị hư hoại và bị sụp đổ; sống trong căn nhà cũ bị hư, bị dột mưa thì rất khổ, rất khó khăn.  Nếu lúc đó chúng ta niệm Phật, đem tâm an trú tại cõi Tây phương tự do tự tại, kiên cố thanh tịnh, bất cứ lúc nào cũng có thể dọn nhà đi thì rất trang nghiêm tốt đẹp.  Nếu buồn rầu áo não theo căn nhà cũ nát, sợ là tương lai bạn cũng sẽ dọn đến căn nhà còn hư dột và cũ hơn hiện tại nữa, đời đời chịu khổ!
Có một bịnh nhân đã già, có người nói ông đã 80 tuổi, có người nói ông đã 90 tuổi.  Hình như trước kia ông là giáo sư trường đại học Bắc Kinh, diện mạo của ông rất giống người trí thức.  Ông không phải là bịnh nhân thuộc chuyên khoa chữa trị của tôi.  Từ lúc đầu tiên khi tôi gặp ông thì ông đã hôn mê bất tỉnh.  Mỗi lần đi vào phòng bịnh tôi chỉ có thể niệm ‘A Di Ðà Phật, A Di Ðà Phật’ vào tai ông.   Cứ như vậy cả hai tháng ông chưa khi nào có một chút phản ứng gì hết.  Sau cùng ông tỉnh lại, có chút phản ứng và nhìn tôi, ra hết sức hình như muốn niệm ‘A Di Ðà Phật’, nhưng không có sức để niệm ra tiếng.  Tay ông cử động hình như muốn chắp tay, chắp tay lại đối với người khoẻ mạnh là một chuyện rất là dễ dàng, nhưng đối với ông thì lại vô cùng khó khăn.  Không phải là lúc còn trẻ da ông cũng rất hồng hào mềm mại hay sao?   Nhưng thế gian vô thường, hồng hào mập mạp trẻ trung sẽ từ từ biến thành già nua lụm cụm! 
Hình như tôi đã đem hình tượng của những người lớn tuổi kéo xuống tận đáy thẳm vực sâu, như thế có phải quá tàn nhẫn hay không?  Nhưng nếu không diễn tả rõ ràng thì mọi người không hiểu rõ những chuyện trong thế gian, không buông xả được, như vậy thì không thể đạt được hạnh phúc tự tại.  Nếu không kịp lúc hồi đầu niệm Phật e rằng sẽ hối hận vĩnh kiếp về sau!
Phần đông khi người ta sắp chết thì hô hấp rất khó khăn.  Nếu đang ở trong bịnh viện thì bác sĩ sẽ đút một ống vào miệng hoặc vào mũi vô khí quản đến phổi để duy trì sự hô hấp. Ðến lúc nguy cấp thì đẩy vào phòng có y tá túc trực thường xuyên để theo dõi bịnh nhân.  Có khi dùng duỡng khí chụp vào mũi để giúp cho bịnh nhân thở.  Khắp nơi trên thân thể chỗ nào có thể đút ống vào thì cũng đều đút ống, thí dụ đường tiểu thì đút ống vào để thông tiểu, miệng thì đút ống vào để dẫn thức ăn vào bao tử, hoặc mũi thì đút ống vào phổi, chỉ thiếu một thứ là không có một ống gì để dẫn ánh sáng của đức Phật A Di Ðà vào tâm khảm của người ta.  Một phòng bịnh có y tá túc trực (intensive care) thì cũng giống như một địa ngục ở trần gian.  Có lẽ những thiết bị tối tân này đã cứu sống rất nhiều người, nhưng thiệt ra đối với bịnh nhân, không kể là chữa lành bịnh hay không đều là địa ngục rất dễ sợ, không người nào thích bị đưa vào thêm một lần nữa!  Lúc trước khi đọc kinh Ðịa Tạng tôi thường nghĩ là chư Phật Bồ Tát sợ chúng sanh làm chuyện ác, cố ý nói ra để dọa người, đâu có chỗ nào là địa ngục thiêu đốt, địa ngục cắt lưỡi, … cái khổ gì cũng có, rất là dễ sợ, hình như đều là dọa người ta.  Ðến khi tôi vô bịnh viện thì mới biết đức Phật nói câu nào cũng đều là sự thật, và cũng hiểu được tại sao đức Phật ở trong kinh đã nhiều phen dặn dò và phó chúc Ðịa Tạng Bồ Tát là: “Ðừng để chúng sanh đọa vào ác đạo [cho dù chỉ là] một ngày một đêm”.  Nhất định phải nói rõ cho chúng sanh biết  những sự khổ trong nhân quả báo ứng này, đừng để cho chúng sanh đọa vào ác đạo chịu khổ một ngày một đêm.”   Nhưng lúc bình thường chúng ta có để ý và hiểu tâm từ bi này của Phật không? 
Khi bịnh nhân kêu tôi nửa đêm, lúc tôi rất mệt và buồn ngủ nhưng phải tỉnh dậy để đi thăm họ, săn sóc, cho thuốc hoặc là trị liệu, lúc đó thấy chúng sanh đang chịu đựng bên bờ sanh tử, những câu trong kinh Bát Ðại Nhân Giác liền hiện ra trong tâm: “Sanh tử thiêu đốt, khổ não vô lượng, phát đại thừa tâm, phổ tế tất cả, nguyện chịu thay vô lượng khổ cho chúng sanh, làm cho chúng sanh đến được sự sung sướng viên mãn”.  Nhưng khi nhìn thấy cảnh tượng quá khổ này kêu bạn đi chịu khổ thay cho chúng sanh bạn có thể làm được không?  Thử hỏi những sự khổ đã kể ở đoạn trước, bạn có thể thay thế cho họ một đêm không?  Tôi không nói chuyện ‘thay thế’ này quá khó, chỉ là ở một bên để săn sóc an ủi người bịnh liên tục mấy đêm liền không ngủ, cả ngày lẫn đêm thì đã quá khó rồi (thường thì bạn sẽ cảm thấy đầu nặng, tim đập mạnh hơn lúc trước…).  Tu hành trong nhà Phật trừ tâm từ bi ra, còn cần có lòng tin vững chắc, nguyện lực rộng lớn, niệm Phật chuyên cần thì mới có khả năng thoát ra khỏi lục đạo sanh tử luân hồi khổ não.  Thiệt ra không nói là thay thế chịu khổ, chỉ ‘nghe’ thôi, cả ngày ngồi ở đó từ sáng đến tối nghe người ta than thở: “Tôi khổ như thế nào”, “nhà tôi có sự khổ vô cùng”, để cho bạn nghe một ngày 24 giờ, liên tục mấy ngày liền thì bạn sẽ hiểu.  Sau khi tôi ‘nghe’ một thời gian, có một hôm khi tôi đang niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì nghe có tiếng người khác cũng đang niệm “Nam mô Ðại từ Ðại bi Quán Thế Âm Bồ Tát”, nghe xong câu này tôi liền có một niềm xúc động vô hạn, chảy nước mắt lúc nào không hay.  Thật đúng như vậy, đừng nói để bạn thay thế chúng sanh chịu vô lượng khổ, chỉ để bạn ‘nghe’ sự khổ thì liền biết lòng từ bi vô biên của Bồ Tát.  Ngài đã phát nguyện “lắng nghe chuyện khổ nạn trong thế gian”, chỗ nào có người chịu khổ liền lập tức đến để cứu họ.  Chúng ta lắng tâm để niệm Bồ Tát, từ danh hiệu của một vị Bồ Tát thì biết được lòng từ bi vô cùng tận của chư Bồ Tát, tâm địa rộng lớn không thể nghĩ bàn của quý ngài.
Khi đôi mắt tôi nhìn thấy sự buồn rầu, lo sợ, khủng bố của những người sắp chết, đôi tai nghe vô số tiếng khóc lúc sanh ly tử biệt, quay lại niệm ‘vô lượng quang minh và vô lượng thọ’ của đức Phật A Di Ðà, tự nhiên lại tràn đầy nước mắt và cảm nhận được sự từ bi thông cảm vô cùng thân thiết chứa đựng trong danh hiệu đức Phật A Di Ðà.  Thì ra đức Phật A Di Ðà từ xưa đã biết được những sự đau buồn đen tối và sự lo sợ trong vòng sanh tử của phàm phu chúng ta, nên ngài phóng vô lượng quang đến khắp mọi nơi để cứu độ, không nhàm chán mà an ủi chúng sanh.  Ngài không nghỉ ngơi, không ‘lấy vacation!’, ngày cũng như đêm, chí nguyện vĩnh viễn không bao giờ ngừng nghỉ mà cứu giúp chúng sanh trong biển khổ sanh tử, đem sự thanh lương ở cõi Cực Lạc ban bố cho chúng sanh.  Bạn có để ý những khi mưa suốt mấy ngày liền nhưng mặt trời vẫn không mất đi.  Vô Lượng Quang Thọ là một nguồn từ bi vĩnh hằng, chiếu rọi vô tận, không bị bất an vì mất đi quang minh, không có sự đau khổ của sanh ly tử biệt.  
Có khi đêm đã khuya, thuốc ngủ và thuốc chống đau đều không còn hiệu lực nữa, tôi thường ở bên giường bịnh nhân giúp họ niệm Phật (thật ra phải nói là ‘Bồ Tát bịnh nhân’ giúp tôi niệm Phật, vì nếu không có họ ở một bên, tôi không siêng đến nỗi nửa đêm không ngủ, thức dậy niệm Phật).   Hòa hợp vào nhịp thở và tiếng niệm Phật của bịnh nhân, vừa niệm vừa nghe từng câu từng tiếng một cách an tịnh.  Khi thuốc men không còn công hiệu nữa, hết sức thành khẩn cầu cứu đức Phật A Di Ðà có công hiệu mạnh nhất, có thể an ủi thân tâm đau khổ của bịnh nhân; lắng nghe được một tiếng thì ngay khi đó liền được giải thoát, nếu an tịnh mà nghe rõ ràng từng chữ từng chữ thì sự đau khổ trong mỗi phút này biến mất cũng như sương tan khi mặt trời mọc.  Phật A Di Ðà giống như một công ty cung cấp điện lực miễn phí, chỉ cần bạn đừng rút đồ cắm điện ra thì sẽ thâu nhận được nguồn năng lượng vĩnh viễn không bao giờ chấm dứt này. 
Có một người bị ung thư ở mũi, ở đây giới thiệu về người này là có ý nghĩa đặc biệt.  Ung thư của cô đã lan rộng đến lúc khó thở thì cô mới đến bịnh viện, lúc đó vô cùng đau đớn.  Một thời gian không lâu trước khi mất, cô phát tâm ăn chay; cô kéo tay tôi và nói: “Bác sĩ à, nếu bịnh tôi không có hy vọng chữa hết thì xin cầu cho tôi được mau mau về nước của đức Phật A Di Ðà”.  Cô từ bịnh viện khác đến bịnh viện chúng tôi để trị liệu phóng xạ.  Bịnh ung thư mũi vốn là bịnh có hiệu quả trị lành bịnh rất cao, chỉ cần phát hiện sớm và trị liệu sớm thì đều hết bịnh, nhưng cô phát hiện bịnh quá trễ.  Vì nửa đêm cô bị hô hấp khó khăn nên người ta mới chở cô đến bịnh viện chúng tôi cấp cứu, nhưng cứu không được. Ðêm đó tôi không có trực tại bịnh viện, cho đến sáng hôm sau lúc tôi đến thì cô đã ngừng thở hết một thời gian và được xem là đã chết rồi, người nhà đang sửa soạn để xuất viện. Không biết tại sao y tá ở phòng cấp cứu kêu tôi bằng hệ thống truyền thanh của bịnh viện.  Khi tôi đến nhìn thấy cô thì cảm thấy rất buồn; tôi kề bên tai cô và nói:
Trong đời sống ngắn ngủi của cô đã chịu đựng quá nhiều đau khổ, con cô tuy còn nhỏ nhưng còn chồng cô lo cho nó, những chuyện này cô muốn lo cũng lo không được rồi.  Bây giờ cô nhất định phải buông xả hết tất cả mọi việc, cô hãy cùng tôi niệm ‘A Di Ðà Phật’ rồi đi theo ngài về tây phương Cực Lạc Thế Giới”. 
Tôi ở bên cạnh cô niệm Phật và cầu đức Phật từ bi nhiếp thọ; lúc đó trong lòng tôi cảm thấy rất rõ ràng mỗi một câu niệm Phật đều từ đáy lòng phát ra.  Một điều kỳ lạ là nước mắt của cô cứ chảy ra hoài.  Sau đó tôi mời những cô y tá trong phòng cấp cứu lại xem và nói:
Trên mặt y khoa chúng ta nói là cô ta đã chết, hơi thở đã đoạn dứt rồi, không còn nhịp tim đập, không còn áp suất của máu, tất cả đều không còn nữa.  Nhưng nhà Phật nói tại vì người chết có chấp trước, thần thức của họ chưa hoàn toàn rời khỏi thân thể, bình quân phải đợi đến 8 giờ sau mới lìa khỏi thân thể, do đó chúng ta phải lo cho người gần lâm chung hoặc là mới chết một cách đàng hoàng”. 
Nhưng người hiện nay nếu tắt thở trong bịnh viện, phần đông là không cho chúng ta để yên không động thi thể của họ, điều này thật đáng tiếc. 
Là người học Phật chúng ta phải đặc biệt chú ý, lúc lâm chung vô cùng quan trọng, vì lúc người ta gần tắt thở tứ đại phân ly rất là đau đớn, thần thức gần thoát ly ra khỏi thân thể đau giống như gió rét cắt thịt hoặc như kéo mu rùa rời khỏi thân rùa.  Lúc bấy giờ tuyệt đối đừng đụng chạm đến thân thể của người mất, phải nhắc nhở và giúp họ niệm Phật, giúp họ khởi lên chánh niệm muốn vãng sanh cõi Cực Lạc.  Nếu không vãng sanh thì phải tùy theo nghiệp báo đi đầu thai, đời đời kiếp kiếp luân lạc trong sáu nẻo luân hồi, sự khổ đau của sanh lão bịnh tử cứ diễn đi diễn lại mãi mãi.  Cho dù bạn là ông vua hay tổng thống cũng không tránh khỏi, thông minh không đối chọi được với nghiệp lực, giàu sang cũng không miễn được luân hồi! 
Một lần nữa  xin nhắc nhở quý vị, nếu sau này gặp những trường hợp như vậy thì phải chú ý: lúc lâm chung và 8 giờ đồng hồ sau khi tắt thở, đều phải nhất tâm niệm Phật, nếu tín nguyện được chân thành thiết tha, đức Phật nhất định từ bi nhiếp thọ.  Trong lúc này (trong vòng tám giờ ) không được di chuyển và động chạm đến thi thể của người mất, không được làm bất cứ chuyện gì động chạm đến họ (kể cả di chuyển giường họ đang nằm) .
Nếu bạn đã bị bịnh nặng thì biết trong lúc thân thể vô cùng yếu đuối và đau đớn, cho dù chỉ là nhích một tí để xoay mình lại, hoặc là thay áo thì cũng làm cho người bịnh rất đau, thân tâm rất khó an lạc.  Phần đông người ta cho rằng niệm Phật là để tiễn đưa người mất, thật ra đức Phật A Di Ðà có vô lượng quang và vô lượng thọ, niệm Phật cho người bịnh nặng là đem tâm đang đau khổ rối loạn của người bịnh khế hợp ( nối liền ) với vô lượng hào quang của Phật (cũng là để khôi phục lại vô lượng quang thọ trong tự tánh của mỗi người.).  Nếu mạng chưa hết niệm Phật nhờ vào Phật lực gia trì có thể tiêu tai diên thọ; có nhiều bịnh nhân buông xả hết vạn duyên nhất tâm niệm Phật, vốn là bịnh rất nặng nhưng cũng lành bịnh.  Nếu thọ mạng đã hết khi niệm Phật thì được đức Phật tiếp dẫn về cõi Cực Lạc đi ‘du học’, được tự tại an lạc.  Trong bịnh viện tôi từng thấy rất nhiều bịnh nhân được đưa vào phòng cấp cứu nhưng cứu không được, bác sĩ tuyên bố đã chết rồi.  Vài giờ sau người nhà từ phương xa đến, người mất tự nhiên ra máu mũi hoặc chảy nước mắt.  Những chuyện này làm cho tôi càng tin tưởng lời dạy của người xưa ‘không được đụng chạm và di động  người mất trong vòng tám giờ sau khi tắt thở, hết lòng niệm Phật để trợ niệm cho người mất’.  Ở đây xin quý vị để ý đừng nên xem thường chuyện này mà tạo nên những sơ sót không thể nào hàn gắn lại được.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét