Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2010

Khuyến tu Tịnh Độ thiết yếu (1)

Có người hỏi Khổng Tử: “Người dời nhà mà quên vợ. Điều đó có chăng?”. Khổng Tử bảo: “Lại có kẻ hơn thế nữa, như Vua Kiệt Vua Trụ thì còn quên cả bản thân mình”. Nếu dùng đạo nhãn mà quán xét thì mọi người thời nay đều quên mất thân mình. Tại sao? Từ sáng sớm mở mắt ra, bước xuống giường, cho đến tối lên giường ngủ thì đều là trần lao, chưa từng tạm thời tỉnh xét thân mình. Đó đều là quên mất mình vậy!

Vả lại, con người đối với thân mình, nếu ở trong một ngày mà nói thì không gì quan trọng hơn là sự đói khát. Ai nấy cần phải lo ăn uống đầy đủ.

Nếu ở trong một năm mà nói thì không gì quan trọng hơn sự lạnh nóng, ai nấy đều cần có y phục đầy đủ. Nếu lấy trọn đời mà nói thì không gì quan trọng hơn là sự sanh tử. Thế mà lại không dự bị, tại sao quá ngu mê như thế?


Đó chẳng phải là ngu thật sự, mà chỉ vì không biết có pháp tu Tịnh độ, có thể làm dự bị chu toàn cho sự sanh tử. Ví như có người đi đến chỗ xa xôi trước cần phải tìm nhà trọ, sau đó mới đi kiếm công việc làm thì tối đến mới có chỗ nghỉ ngơi. Trước tìm nhà trọ đó là nói tu Tịnh độ, khi tối đến là chỉ cho sanh mạng sắp hết, có chỗ nghỉ ngơi nghĩa là sanh trong hoa sen không còn trầm luân nơi đường ác, chịu những điều khỗ não.

Do đó mà xét thì niệm Phật để tu Tịnh độ, tu Tịnh độ để vãng sanh. Trong kinh nói, thọ mạng vô lượng, có vui không khổ, thế thì sự dự bị cho cả đời chẳng phải là rất đầy đủ lắm sao!

Hiện nay, có người biết mà lại không tu là tại sao? Ôi! Biết rồi! Hoặc là do ở nhà không có chỗ tĩnh tu, hoặc do không thể ăn chay, hoặc do sự việc phiền lụy tâm tư nhọc nhằn. Đâu biết rằng, niệm Phật chính là phải ở chỗ ồn náo để rèn luyện, chẳng câu nệ đi đứng nằm ngồi. Ở nơi huyên náo mà có thể nhất tâm không loạn động thì một tiếng niệm Phật ấy còn hơn niệm nhiều tiếng ở nơi yên tịnh.

Đó gọi là: Tâm thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh.

Nếu niệm Phật lại còn trường trai thì cố nhiên quá tốt, nhưng chỉ có bậc xuất gia mới được.

Nếu người tại gia mà có tâm xuất thế cũng cần phải cầu tốt đẹp mọi bề. Song cứ gây sự khốn khó cho người, bắt buộc phải trường trai thì chẳng phải là điều thích hợp dùng để khuyên bảo mọi người.

Nếu sáng sớm khi thức dậy chí thành niệm Phật thì đã có thể tiêu diệt tội lỗi trong hiện đời, lúc mạng chung lại được siêu sanh Tịnh độ.

Còn như số lượng của việc niệm Phật thì người rảnh rang niệm càng nhiều càng tốt. Nếu người bận việc mà phát tâm Vô thượng Bồ đề cũng phải xếp vào đây.

Gượng ép việc mà người không thể làm được, cũng chẳng phải là điều thích hợp để khuyên bảo đời. Bởi vì, trọn ngày tuy bận rộn nhưng lẽ nào lại không có chút thời giờ rãnh rỗi? Sao không bớt thời gian uống trà, nói chuyện phiếm để thâu nhiếp tâm tư mà niệm Phật?

Người học nhằn về sức lực, cũng có thể nhờ danh hiệu Phật mà tích chứa sức mạnh. Việc ấy có lợi ích không tổn hại, còn có điều nào hơn đây nữa? Huống chi, chẳng những được hiệu nghiệm lúc mạng chung, mà còn thấy được công năng nơi hiện tại. Kinh nói: “Nếu người thọ trì danh hiệu Phật thì hiện đời được mười loại công đức:

1. Ngày đêm thường được tất cả chư Thiên, Thần tướng đại lực, cùng các quyến thuộc ẩn hình bảo hộ.

2. Thường được 25 vị đại Bồ Tát như ngài Quán Thế Âm và tất cả các Bồ Tát thường theo bảo hộ.

3. Thường được chư Phật hộ niệm cả ngày đêm, Phật A Di Đà thường phóng ánh sáng nhiếp thọ người này.

4. Tất cả ác quỷ, hoặc dạ xoa, la sát đều không thể hại, tất cả rắn độc, thuốc độc đều không thể xâm phạm.

5. Không bị mọi tai nạn nước lửa, giặc cướp, gươm đao, ngục tù, xiềng xích, chết đột ngột, điên cuồng mất mạng.

6. Những tội nghiệp đã làm trước kia thảy đều tiêu diệt. Những oan mạng đã bị giết chết ngày xưa đều được giải thoát không còn kết thù oán.

7. Đêm nằm nghỉ an ổn, hoặc mộng thấy sắc thân thắng diệu của Phật A Di Đà.

8. Tâm thường hoan hỷ, nhan sắc tươi sáng, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp.

9. Thường được tất cả mọi người ở đời cung kính, cúng dường, lễ bái cũng như kính Phật.

10. Khi lâm chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện diện, được thấy Phật A Di Đà và các Thánh chúng tay bưng đài vàng tiếp dẫn vãng sanh về Cực Lạc, cùng tận kiếp vị lai hưởng thọ sự vui mầu nhiệm.

Đức Phật khẩn thiết ngăn cấm mọi người nói dối, nhất định Ngài sẽ e không nói dối lừa gạt mọi người.

Người đời nói dối, nếu không phải là để được lợi thì cũng là để tránh hại. Đức Phật chẳng mong cầu gì ở thế gian thì nào có tìm kiếm điều lợi gì? Đức Phật xem sự sanh tử như dao cắt hư không thì sao lại lẩn tránh tai hại? Thế nên, việc nói dối đối với Đức Phật chỉ là vô dụng.

Nếu tin Phật không nói dối, nên xem kỹ lời khuyên bảo về bốn phần tu tập vãng sanh Tịnh độ sau; đồng thời nên mượn đây để khuyên bảo kẻ khác, độ mình độ người công đức vô lượng.

Chớ nên để sách này trên gác cao, cho là lời nói không căn cứ, cô phụ tâm lão bà này. Giả sử người không có duyên với Phật chẳng tin, cũng mong chuyển đến người khác để lưu thông pháp này, lần lượt chỉ dạy dẫn dắt lẫn nhau, khiến cho ai nấy đều bước lên con đường giác ngộ, người người cùng ra khỏi bến mê. Đó là sự mong đợi của tôi ở nơi các vị!

1. KHUYÊN PHÁT TÂM NIỆM PHẬT

Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?

Bởi lẽ, tâm niệm của con người quan hệ trọng đại, dẫn dắt hồn phách, tạo sanh thân mạng, đều là do tâm ý. Niệm thiện sanh thiên đường, niệm ác vào địa ngục, niệm ma thì thành ma, niệm Phật thì thành Phật. Thế nên, khuyên bảo mọi người niệm Phật.

Trong mười phương ba đời có trăm ngàn muôn ức Phật, sao chỉ khuyên người niệm Phật A Di Đà?

Bởi vì, Phật A Di Đà từng phát bốn mươi tám nguyện, mỗi nguyện đều độ chúng sanh. Lại do Phật A Di Đà và chúng sanh ở Ta Bà có duyên; không luận là tăng tục, nam, nữ, ai có thể niệm Phật thì đều được Phật thâu nhận. Thế nên, chuyên tâm trì danh thì được tiếp dẫn vãng sanh về cõi kia. Cho dù người ác nhưng biết chí tâm sám hối, trì danh hiệu Phật ắt có thể còn nghiệp mà được vãng sanh. Do đó khuyên bảo mọi người niệm Phật A Di Đà.

Người nay đều hiểu rõ niệm Phật là tốt, chỉ vì nhiều đời nhiều kiếp tham sân si ái trồng nghiệp quá sâu nên khó phát tâm.

Chư Thiện nhân! Nên biết thế giới Ta Bà khổ não rất nhiều. Ông xem người đời có kẻ rất nghèo nàn hèn hạ, có người gặp nhiều tai nạn bệnh tật, có kẻ lẻ loi cô độc, có người gặp vợ chẳng hiền, còn hung dữ. Mọi người đều có cảnh khổ của riêng mình, mọi người đều có khổ tâm của riêng mình, những nổi khổ ấy vốn không đợi phải nói.

Ngay cả như người giàu có khỏe mạnh, gia đình quây quần hòa thuận, các thứ đầy đủ, mọi điều như ý, thế thì họ thật chẳng có đau khổ rồi! Nhưng mạng sống lại có giới hạn thì biết làm sao? Vả lại, chưa nói đến việc đoản mạng, dù cho ông sống đến trăm tuổi nhưng khi đại hạn tới cũng khó tránh khỏi cái chết. Đến lúc ấy chỉ còn cách duy nhất là nhắm mắt vô quan tài, muôn việc đều dứt. Vẻ hào hoa thuở trước, giờ đây ở nơi nào? Nói đến đây thì vẫn là khổ. Nếu người khi còn sống làm việc ác, lúc chết rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, theo nghiệp chịu quả báo, mãi đến khi trả hết nghiệp ác mới được chuyển làm thân người.

Cho dù người khi còn sống làm lành, chẳng qua cũng chỉ là gieo trồng một vài nhân lành phước báo, còn e oan nghiệt của đời trước nặng nề phải đền trả xong nợ cũ, thế thì đời sau phải chịu khổ rơi vào ba đường ác. Giả sử đời trước không có tội nghiệp nặng, đời sau liền được phước báo. Vả lại chưa nói đến phước báo chẳng toàn vẹn mà người hưởng phước thường thường cũng có đau khổ. Dẫu rằng vui sướng mười phần nhưng khi hưởng hết giàu sang thì vẫn nghèo hèn; huống chi một khi hưởng giàu sang ắt dễ dàng tạo nghiệp, chẳng bảo đảm là không rơi vào trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Đừng nói sự giàu sang ở thế gian, dù cho làm việc lành rất lớn được sanh lên cõi trời nhưng khi hưởng hết phước trời vẫn phải đọa lạc. Rốt cuộc vẫn là đau khổ!

Bởi vì trong ba cõi có nói khổ này, thế nên Đức Phật từ bi nói một quyển kinh A Di Đà dạy người niệm Phật được vãng sanh thế giới Cực Lạc, rời hẳn mọi đau khổ, mãi mãi thọ hưởng các điều vui. Đó là lời từ kim khẩu của Phật nói ra.

Đức Phật ngăn cấm nói dối, lẽ nào Ngài lại dối gạt người? Chỉ là có nhiều hạng người khác nhau nên nguyên nhân không phát tâm niệm Phật cũng sai biệt:

* Có người không biết sự lợi ích của niệm Phật nên không niệm.

* Có người không có lòng tin nên không niệm.

* Có người do tham trước sự vui sướng ở trước mắt nên không niệm.

* Có người vì gặp nghiệp điều chướng ngại nên không niệm.

Có nhiều nguyên nhân không giống nhau. Đâu biết rằng một tiếng Phật nầy, ai cũng niệm được và ai cũng nên niệm.

Nếu muốn cả thiên hạ bỏ việc sĩ, nông, công, thương, mọi kỹ nghệ để niệm Phật, đó là sự trở ngại cho mọi người, chẳng phải là điều thích hợp để khuyên bảo. Bởi lẽ, pháp Trì danh đối với tất cả việc làm đều không ngăn ngại, đã chẳng phế bỏ nghề nghiệp lại không trở ngại sự sanh nhai, đồng thời chẳng phạm luật pháp mà còn có thể tránh khỏi nỗi khổ luân hồi nơi địa ngục. Đâu không phải là việc có lợi không hại, nhất cử mà lưỡng đắc sao!

Ngay cả như người rảnh rang chính phải nên niệm Phật. Hoặc gia đình có tài sản ruộng vườn, không nhọc nhằn lo kinh doanh; hoặc có phụ, huynh, tử, đệ để nương tựa, tự thân an nhàn vô sự, những người như thế là do sự tích lũy tu hành từ đời trước mà có được, không phải mọi người đều được như vậy, thế nên cần phải ở ngay đây tu hành thêm nữa. Nếu bỏ thời gian trôi suông, luống qua một đời thì rất đáng tiếc!

Người bận rộn chính phải nên niệm Phật. Dù không được như người vô sự sáu thời khóa tụng, cũng phải nên tranh thủ thời giờ trong lúc bận rộn. Văn Long Thơ Tịnh Độ nói: “Mỗi ngày sáng sớm chí tâm thực hành pháp Thập niệm, tâm chuyên nhất, nguyện thiết tha thì cũng được vãng sanh”. Nếu không y theo pháp môn này, tuy gắng gượng dường như lăng xăng cả đời nhưng rốt cuộc trở thành không.

Người giàu sang chính phải nên niệm Phật. Dù cho giàu sang lâu dài nhưng thân không bền chắc thì biết làm sao? Tại sao chẳng ở nơi hoàn cảnh mọi thứ đầy đủ mà phát tâm niệm Phật?

Người bần cùng chính phải nên niệm Phật. Bởi đời trước không tu nên đời nay nghèo khổ, đời nay lại không tu sau khi chết giống như đã rơi xuống giếng, bao giờ mới được thoát ra? Huống chi, pháp môn niệm Phật này hoàn toàn chẳng làm lỡ việc tìm cầu cơm áo của ông. Có sự thuận tiện như thế, tại sao lại chẳng tu tập?

Người thiếu niên chính phải nên niệm Phật. Thừa lúc tinh thần mạnh mẽ mà cầu Vô thượng Bồ Đề; tích lũy ngày tháng, công lao chẳng qua suông. Huống chi mạng sống của con người chẳng đồng nhau, phần nhiều thường bị chết yểu. Nếu biết khắc phục thầm tu, nhờ Phật hộ trì mà hưởng thượng thọ. Khi ấy xem lại những người yểu mạng mới tin sự dụng công của mình là không sai lầm.

Người già suy chính phải nên niệm Phật. Đã trải qua bao nhiêu năm tháng, hoặc sự việc vẫn chưa xong thì rốt cuộc cũng chẳng xong. Sao chẳng lấy thời gian hữu hạn gấp rút cầu sanh Tịnh độ? Đó thật là có thể tỏ rõ được điều mà người khác không thể tỏ rõ.

Người nữ có con chính phải nên niệm Phật. Thường nói có con thì muôn việc đầy đủ, còn nói rằng con cháu tự có phước của nó. Những người ấy chính nên an tâm học Phật, nhưng họ lại si ái chẳng bỏ, tự cam chịu trọn đời làm trâu ngựa, hoàn toàn chẳng nghĩ đã hao phí bao nhiêu tâm huyết, rốt cuộc đối với chính mình không có dính dáng một điều gì. Khi sanh tử đến dù cho có con cực kỳ hiếu thảo cũng chẳng thay thế được.

Người cô độc không vợ không chồng chính phải nên niệm Phật. Họ không thiếu nợ người nên người không đến đòi, người ta cũng không thiếu họ nên không có việc hoàn trả nợ. Một thân đơn chiếc, chẳng lo cưới vợ cho con trai, khỏi phiền lấy chồng cho con gái. Sao không nhân đó mà chuyên tâm nơi Tây Phương, vượt ra khỏi vòng sanh tử?

Phàm ít một phần ái luyến là ít một phần ràng buộc; ít một phần ràng buộc là ít một phần nghiệp chướng; nhợt nhạt đối với duyên đời thì sâu đậm trong duyên Phật. Thế nên, ai được như hạng người nầy, sống không lo âu chết chẳng lo ngại, thật là người nên niệm Phật hạng nhất trong nhân gian, ra công ít mà hiệu quả gấp bội.

Người có thê thiếp ân ái chính phải nên niệm Phật. Người xưa nói: “Vợ chồng giống như chim chung rừng, lúc đại hạn đến đều tự bay". Lại nói: “Cốt nhục ân tình yêu thương, khó hẹn đầu bạc xum vầy, sao bằng đồng tu Cực Lạc, sau nầy nắm tay về đài sen”. Làm bạn Phật trong vô lượng kiếp, so với ân ái hữu hạn đâu chẳng phải là rất tốt hơn sao?

Người bị cốt nhục oán ghét chính phải nên niệm Phật. Oan gia tụ hội, tuy là người thân mà chẳng phải thân, không sớm cởi mở thì càng buộc càng chặt. Nếu ông thường niệm Di Đà, hiện đời liền được giải thoát.

Người phụ nữ chính phải nên niệm Phật. Do phụ nữ vốn là thân đang đọa lạc trong ngũ lậu, đang lo lắng không được thoát khỏi. Chẳng phải dễ dàng gặp được pháp môn niệm Phật này mà sao còn không gấp rút tu hành, xa rời nơi nẻo khổ? Huống chi, trong bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà, nguyện thứ 35 nói rằng: “Nếu khi tôi thành Phật, trong vô lượng thế giới phương, nếu có người nữ nghe danh hiệu Tôi, tin tưởng ưa thích, phát tâm Bồ đề, chán ghét thân nữ, sau khi mạng chung nếu người ấy còn làm thân nữ thì Tôi không thành Chánh giác”. Do đó phụ nữ chuyên tu Tịnh độ tất có thể thoát khỏi thân nữ, chứng quả Bồ đề, nhưng không thể niệm Phật mà mê hoặc nơi tà kiến.

Người tàn tật chính phải nên niệm Phật. Thân thể không đầy đủ, đã khó sánh với người thường, nếu lại đọa lạc thì ắt phải rơi vào ba đường ác càng đau khổ hơn.

Người có bệnh tật chính phải nên niệm Phật. Người cường tráng còn đề phòng bị chết đột ngột, huống chi bệnh tật là đang cận kề cái chết. Dù không chết nhưng trọn ngày bệnh khổ triền miên thì giống như sống trong địa ngục, gấp rút tu hành còn e không kịp!

Người gặp tai nạn chính phải nên niệm Phật. Nghiệp đời trước chín mùi, đời nay khó mà trốn tránh, hoàn toàn phải nhờ vào sức mạnh của Phật để tránh khỏi tai ương này.

Người tốt chính phải nên niệm Phật. Người tốt Phật hộ niệm cùng đắc lực. Nếu chỉ làm lành mà không niệm Phật, so với người khác không làm lành tuy cảm thấy hơn người kia nhưng chẳng qua đời này đời sau chỉ hưởng một vài phước suông, phước hết vẫn phải đọa lạc. Chẳng bằng làm lành lại thêm niệm Phật, vãng sanh Cực Lạc lên thẳng Thượng phẩm, mãi mãi không còn đọa lạc.

Người ác chính phải nên niệm Phật. Làm ác mắc tội người đời đều biết, chỉ vì chưa từng kiểm điểm đó thôi. Nay ông canh năm thức dậy, suy xét mỗi việc mỗi việc, nếu quả thật là ác thì gấp rút cầu sám hối, sửa ác làm lành một lòng niệm Phật. Đức Phật đại từ bi, không có ai mà Ngài không tế độ.

Lại kiểm xét thường ngày không có việc ác nào chẳng tạo, hoặc những việc đã qua trở thành chướng ngại lớn, không thể nào cứu vãn; hoặc cảnh hiện tại như lỡ leo lên lưng cọp khó xuống, đành phải trái với lương tâm; hoặc làm gái, làm thầy kiện mưu tính của cải sanh mạng của nhiều người; hoặc kẻ đồ tể, người chài lưới hại ức vạn sanh linh. Nếu theo nhân mà luận quả thì sẽ bị quả báo thống khổ trong nhiều kiếp không thể cứu vãn, nhưng quyết không nên vứt bỏ mình mà chỉ mưu toan ở hiện tại, bị lỗi lầm lại còn thêm lỗi lầm.

Nên biết, Đức Phật mở một môn niệm Phật chính là do thương xót những chúng sanh phải chịu quả báo này, giải trừ cực khổ, dẫn dắt họ về Cực Lạc.

Tuy ông tạo hắc nghiệp lớn ấy mà có thể gặp pháp môn niệm Phật vãng sanh, đó chính là duyên lành vô cùng rộng lớn trong nhiều đời. Khi quả báo đau khổ chưa đến quyết ý mạnh mẽ niệm Phật, nắm chặt một niệm này, thành tựu nguyện lực, quyết định vãng sanh. Nên tìm bậc Thiện tri thức khai thị giảng luận để tăng tiến lòng tin.

Thử xem sư Hùng Tuấn, Trương Thiện Hòa trước kia tức là tấm gương cực ác mà được vãng sanh. Thừa sớm mà tu hành, chớ nên nghi ngờ! chớ nên nghi ngờ! Ngoài một môn niệm Phật này ra, không còn pháp cứu độ thẳng tắt nào khác.

Người tu tập định Không, chính phải nên niệm Phật. Có một hạng người ái trước thiền định yên tĩnh, cho là một niệm không sanh, buông bỏ rồi lại buông bỏ. Hoặc được cảnh không trong một hai ngày, liền bảo rằng đó tức là Đại định Kim Cang, chấp chặt không bỏ. Như thế đã không phù hợp với Tông môn lại chẳng biết cứu xét giáo pháp Quán tâm. Đâu biết rằng, dù trải qua tám muôn kiếp rốt cuộc vẫn là rơi vào không ngơ, chẳng bằng sớm chiều niệm Phật hồi hướng Tây Phương, hoàn toàn chẳng trở ngại việc vãng sanh, vô cùng ổn thỏa. Như thế đâu không phải là rất tốt hay sao?

Người tụng kinh chú chính phải nên niệm Phật. Chỉ cần thành tâm trì tụng, không được xem là việc làm lấy lệ. Niệm Phật, tụng kinh đều phải hồi hướng Tây Phương, nhất định được vãng sanh.

Người tham thiền chính phải nên niệm Phật. Tham thiền đại ngộ nhìn thấu sanh tử, đã biết được Tự tánh Di Đà, song sự thực hành và hiểu biết phù hợp nhau mới gọi là Tổ. Cho nên, Nhị Tổ còn bảo: “Ta tự điều phục tâm”, Lục Tổ còn nói: “Ngộ thời tự độ”, chính là phải huân tu miên mật, quyết không thể tự phụ nơi kiến giải điên cuồng chê bai Tịnh độ. Đừng nói khi sanh tử đến không thể làm chủ, ngay cả việc có thể tự do nơi sanh tử mà nếu còn có một mảy mai ý niệm buộc ràng cũng khó tránh khỏi nghiệp nhân trong ba đường. Lúc ấm cảnh hiện ra, bỗng liền đi theo nó, vẫn như cũ mà vào luân hồi. Đáng tiếc! Đáng tiếc! Thật đáng tiếc! Trăm sai, ngàn sai, lại muôn sai. Sao bằng niệm Phật cầu vãng sanh, muôn người tu muôn người vãng sanh.

Người giảng kinh giáo chính phải nên niệm Phật. Ngàn kinh muôn luận tuy chỉ dạy pháp môn tu hành không đồng, nhưng nói chung cần phải đoạn trừ kiến hoặc tư hoặc mới được thoát khỏi luân hồi, song luận bàn không phải dễ dàng. Các tông Tánh, Tướng, Không, Mật ở Tây Trúc hãy để sang một bên không bàn tới, ngay đến ba nhà Thiên Thai, Hiền Thủ, Duy Thức ở Trung Hoa, đều lấy việc đoạn trừ kiến tư hoặc làm vị thứ vượt ra sanh tử. Vị thứ đoạn trừ kiến tư hoặc này, ở nơi Thanh Văn đã là Tứ quả La Hán, ở nơi Viên thừa đã là Tương tợ, Phần chứng. Từ khi Phật Pháp từ phương Đông truyền sang đến nay, có mấy ai đạt đến chỗ đó? Vả lại, trong kinh luận phần nhiều khen ngợi vãng sanh. Phải nên dũng mãnh niệm Phật, y theo giáo lý mà thực hành!

Ni cô, đạo cô chính phải nên niệm Phật. Hiện ở trên đất Phật, đạo tràng thanh tịnh, sớm chiều chí thành niệm Phật, vì chính mình tu giải thoát, vì người đời làm mẫu mực. Như thế chân thật cầu vãng sanh Tịnh độ, so với công đức của người khác còn hơn vô lượng. Tại sao? Vì phụ nữ ở đời thường tin tưởng sự hóa đạo của các vị này, nên có thể dùng con đường chân chánh niệm Phật mà khuyên bảo mọi người, không chỉ tự độ mà còn có thể độ người, công đức ấy thật là to lớn! Ngay cả sự bố thí cúng dường của người ngoài không cầu mà cũng tự đến. Nếu lấy niệm Phật làm lý do để hóa duyên và bảo mọi người gởi giấy tiền vàng mã cầu hiện tại sống lâu, sau khi chết trở thành tiền để dùng nơi âm phủ. Dùng những tà thuyết lừa gạt mọi người, như thế chẳng những làm lầm người khác mà còn làm lầm chính mình.

Những việc nói trên đều là tuân theo di giáo của Phật tổ, chẳng phải bày đặt không căn cứ. Cúi mong những người thấy nghe ai nấy đều tự cảnh tỉnh!

Nên biết. Ta Bà thật là khổ, Tây Phương thật là vui. Ta Bà đau khổ luân hồi chẳng dứt, Tây Phương an vui kiếp số không cùng.

Nhất định đừng nói khổ mà không biết khổ, nói khổ thì dễ dàng, chịu khổ thì thật là khó khăn. Một vài điều khổ nho nhỏ đã cảm thấy khó chịu rồi, huống chi những nổi khổ cùng cực.

Không thể nghe vui mà không tin là vui, lời Phật không tin thì lời ai đáng tin? Người trung tín ở thế gian nói một câu mà mọi người còn không nghi, huống chi lời Phật nói.

Lành thay! Lành thay!

Gấp sớm quay đầu,

Phát tâm niệm Phật.

II. KHUYÊN THẬT TÂM NIỆM PHẬT

Các vị Thiện nhân! Nay đã phát tâm niệm Phật, cần phải thật tâm mà niệm, không nên hữu danh vô thật.

Nói chung, người không có căn lành quyết không thể niệm Phật, vì thế người xưa nói: “Nghe Phật Pháp khó, được lòng tin chân thật càng khó”. Nay có thể phát tâm niệm Phật, căn lành này phải cố gắng làm tăng trưởng trong từng giờ từng khắc, không nên chính mình tự lừa dối mình.

Còn như niệm Phật mà thông suốt cả Tông Giáo, Sự Lý viên dung, đã không chấp Lý bỏ Sự, cũng không ở ngoài Sự mà thấy Lý. Những người này đối với các thuyết Sự nhất tâm, lý nhất tâm rõ ràng không nghi, quyết sẽ lên Thượng phẩm Thượng sanh, đài vàng tiếp dẫn, hoàn toàn chẳng cần người khác khuyên bảo khen ngợi. Tôi cũng không cần phải nói rườm rà.

Nay chỉ đối với người niệm Phật ở nơi Sự, phân làm ba hạng:

Hạng thứ nhất:

Lòng tin chân thật thiết tha, chân chân thật thật, nhất tâm niệm Phật.

Tuy cùng mặc áo, ăn cơm, làm việc, buôn bán bình thường nhưng chỉ tin một việc này, đi cũng A Di Đà, ngồi cũng A Di Đà, dù bận rộn như tên bắn cũng không rời A Di Đà, tinh tấn chẳng lùi. Hôm nay cũng như thế, ngày mai cũng như thế, năm nay cũng như thế, năm sau cũng như thế.

Hạng người này, Đức Phật nhất định hộ niệm, lúc mạng chung người ấy nhất định vãng sanh thế giới Cực Lạc.

Hạng thứ hai

Hoặc tâm không chuyên nhất, họ cũng biết sự lợi ích của niệm Phật nhưng tục niệm nặng nề, chánh niệm, cạn mỏng, vừa mới niệm Phật thì trong tâm lại nghĩ việc khác, một nóng mười lạnh, niệm một ngày lại bỏ mười ngày.

Niệm Phật giống như hạng người này, dù niệm đến già cũng không được gì, chẳng qua chỉ là gieo trồng căn lành mà thôi.

Đời sau có duyên chạm đến điểm căn lành này thì bắt đầu mới chân thật tu hành một phen mới mong có được thành tựu.

Hạng thứ ba:

Miệng niệm, tâm không niệm. Người này vốn chẳng biết sự lợi ích của niệm Phật mà chỉ hâm mộ danh tu hành.

Hôm nay ở trong hội Phật này đi theo một người niệm một ngày, ngày mai ở trong hội Phật kia đi theo người niệm một ngày, tuy là có danh niệm Phật một ngày nhưng kỳ thật chỉ là qua suông. Thời gian nói chuyện phiếm thì nhiều, thời giờ niệm Phật thì ít. Ở trong Phật đường vốn đã có tham sân si ái, ra khỏi Phật đường tất tránh không khỏi việc tham sân si ái.

Người này so với hạng thứ hai kém hơn nhiều.

Ba hạng người nói trên, hạng thứ nhất rất ít, hạng thứ ba cũng không nhiều lắm, chỉ có hạng thứ hai mọi người dễ phạm vào. Do chúng sanh cõi Ta Bà bị vật dục che lấp, vọng niệm khó trừ cho nên mới như thế.

Thử nghĩ, lúc làm tất cả việc đời, nếu có thể chuyên tâm nơi đây còn không phân tâm nơi kia. Thậm chí mắt chẳng biết sắc, tai chẳng biết tiếng, thân chẳng biết sự xúc phạm, làm suốt đêm ngày, đó chính là khuôn mẫu của sự dụng tâm chân thật. Niệm Phật cần phải như thế mới có thể đắc lực.

Khổ nỗi chỉ dựa vào cách niệm tán loạn lười biếng ấy của ông thì tuy gieo được một chút căn lành, nhưng e cội ác sâu dày, căn lành cạn mỏng, dù cho một đời không có ác nghiệp, đâu bảo đảm được đời sau ông không làm ác.

Do điều ác che lấp việc lành nên tuy gieo trồng căn lành nhưng khó mà phát sanh. Hơn nữa, chẳng biết mấy đời mấy kiếp mới được thoát khỏi. Đâu chẳng phải rất là thống khổ sao?

Phải nên gấp rút phát khởi tâm khẩn thiết chân thật, phát khởi sức lực dũng mãnh, duyên đời có thể buông bỏ thì buông bỏ, mạng người vô thường quyết đừng lưu luyến mà tự làm lầm mình.

Dù có điều chưa thể buông bỏ, cũng chẳng ngại ông niệm Phật. Ví như, ông có một việc khẩn thiết ở nơi lòng, tuy làm việc khác nhưng vẫn không sao quên được việc khẩn thiết ấy.

Có thể niệm Phật như thế thì tự nhiên không có tạp niệm; cũng không đến nỗi một ngày nóng mười ngày lạnh, đó là vì tâm không chân thật khẩn thiết.

Còn có người tâm qua chân thật khẩn thiết lại bị ma nhiễu loạn, chẳng được tự do. Công đức lợi ích của niệm Phật họ cũng biết thật sự, rất tin tưởng; phương pháp niệm Phật họ cũng nghe nhiều thấy rộng, nhưng công phú niệm Phật lại không thể thực hành đầy đủ.

Họ nói với người tâm phải chuyên nhất, nhưng chính mình lại tạp niệm không dứt.

Họ nói với người mạnh mẽ tinh tấn, nhưng chính mình lại thường thường lười biếng.

Họ nói với người tâm sanh tử khẩn thiết, nhưng chính mình lại nhàn rỗi lơ là.

Họ nói với người nhiều thứ phương tiện, nhưng chính mình lại vì người quên mình.

Đó là vì lý do gì?

Bởi vì người này kiếp trước hoặc đời nay từng gieo trồng căn lành, cho nên trong tâm sáng tỏ, tương đối có thể hiểu biết chút ít.

Lại do thuở xưa nghiệp nặng cho nên bị ma nhiễu loạn. Có ma bên trong, có ma bên ngoài. Ma bên trong là trong tâm khi tỉnh lúc mê, tất cả tham sân si ái, tâm này vừa lìa thì tâm kia lại khởi. Ma bên ngoài là gặp cảnh khó khăn đủ mọi chướng duyên bức hại thân tâm, chẳng được an ổn.

Nếu không may gặp ma sự thì nên đối trước Phật phát nguyện, siêng năng cầu sám hối, tiêu trừ lỗi lầm trước kia. Người tu hành xưa nay đều gặp việc này, song quan trọng ở chỗ tâm niệm Phật chẳng nhân ma sự mà thối lui. Lập chí kiên định, trăm khó không sờn, mặc cho mọi thứ chướng duyên một câu Phật hiệu này quyết chẳng rời tâm ta.

Sức ma tuy mạnh, dựa vào vạn đức hồng danh này chống cự với nó, chẳng tính lợi hại sống chết chỉ lo chuyên niệm, niệm sáu chữ, niệm bốn chữ, niệm lớn, niệm nhỏ, niệm rõ, niệm thầm, niệm lúc hành đạo, niệm khi lễ bái, đi đứng nằm ngồi cũng niệm, khi vui niệm, lúc buồn cũng niệm, sáng tỏ niệm, hôn trầm cũng niệm. Niệm đến mủi lòng thương cảm, niệm đến lửa tắt tro tàn, niệm đến quỷ thần khâm phục, niệm đến chư Thiên hoan hỷ, niệm đến ma quỷ đầu hàng.

Một câu Phật hiệu làm tiêu nghiệp chướng trong muôn kiếp ngàn đời; một câu Phật hiệu là nhân duyên phát khởi bốn ân ba cõi.

Công phu niệm Phật bền bỉ mãi giống như ép mè, tiếng chày giã càng thêm mạnh mẽ cho đến lúc ra dầu; thuyền khi gặp sóng to, tiếng mái chèo càng thêm kiến quyết; vạt nước sôi ở phía sau, ao sen ở phía trước, tuy có ngàn vạn người ngăn trở ta niệm Phật, thề không thối lui, lâu ngày dài tháng tất được lòng từ bi của Phật âm thầm trợ giúp, chướng duyên tiêu tan, thanh tịnh duyên thành tựu. Phật chẳng phụ lòng người, ắt làm mãn nguyện chúng sanh.

Các vị Thiện nhân! Người nghiệp chướng nặng nề còn như thế thì người nghiệp chướng cạn mỏng tất có thể biết được. Người có nghiệp chướng mà còn như thế thì người không nghiệp chướng ắt cũng có thể biết rõ.

Lành thay! Lành thay!

Mọi người nên gắng sức,

Thật tâm mà niệm Phật.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét